Trường Xưa Trong Trí Nhớ
Hoàng Anh
Phần 4
THẦY CÔ
(tiếp theo)
8.Võ Tấn Phước
Thầy sinh ngày
30-10-1941 ở Dương Đông, Phú Quốc, nhưng từ nhỏ đến lớn
sống và đi học ở Bình Dương. Thời trung học, học ở trường
trung học tư thục Nguyễn Trãi, bạn thân với hoạ sĩ,
điêu khắc gia Lê Thành Nhơn. Hai người từng
là học trò của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền những năm học
tại đây. Nhà thầy ở đường Nguyễn Thái Học,
Phú Cường, Bình Dương. Ba là Đông y sĩ
Võ Văn Chẩm, anh thầy là Võ Tấn Vinh, nguyên
Phó Tỉnh Trưởng Bình Dương trước 75. Thầy tốt nghiệp Đại
học Sư Phạm Sài Gòn, khoa Việt Hán. Dạy Việt Văn ở
trường trung học Hòang Diệu, Ba Xuyên trước khi về THD.
Nhờ biết chữ Hán, ngoài công việc dạy học, thầy
còn nghiên cứu nhiều về triết học Đông phương,
khá am tường môn Bốc Dịch, Tướng Số. Dáng người đầy
đặn, mặt tròn, phúc hậu và ăn nói
khá duyên dáng nên được trò yêu
thích. Nhiều học sinh không được học với thầy, canh đến
buổi thầy dạy đi học sớm đứng ngoài cửa nghe lén,
lâu lâu lại cười ồ một mình.
Đến năm 1973, khi thầy Phúc
rời trường THD, thầy là người được nghĩ đến để kế nhiệm nhưng
thầy từ chối. Dường như đời thầy không thích làm
người nỗi bật. Có đồng nghiệp khen thầy tính tình
hiền hoà, dễ hoà đồng, dù thuộc con nhà
“trâm anh thế phiệt” nhưng không khi nào tiết lộ hay
khoe khoang thân phận của mình.
Thầy lấy vợ muộn, cưới
cô Duyên, một cô giùao dạy chung trường. Năm
1979 Thầy vượt biên sang Pulau Pidong, Mã Lai, rồi đi tiếp
qua Montréal, Toronto, Canada. Có thể những cuộc tan vỡ,
chia lìa lớn lao trong những năm tháng ấy đã
giúp cho văn đàn có thêm một khuôn mặt
mới: nhà văn Võ Kỳ Điền (bắt đầu viết từ năm 1980).
Sáng tác của
thầy liên quan đến những kỷ niệm nơi mái trường cũ
có bài ký về Lê Vĩnh Thọ, một đồng nghiệp
của thầy nơi đây.
Tác phẩm:
Pulau Bidong miền đất lạ
Kẻ đưa đường
9. Lâm Lý Hùng
Nhà ở chợ Lái
Thiêu, dạy Lý Hoá. Học hành rất giỏi nhưng
dáng có vẻ lờ đờ, chậm chạp. Thầy đi chiếc xe
mo-bi-lêùt vàng, đôi khi cho xe nổ máy
để phát điện làm thí nghiệm cho học sinh học tập.
Sau thầy về dạy đại học Khoa Học ở Sài Gòn, Đà Lạt
…Đến ngày 2-3-1975, thầy tự cầm lái chở cả gia
đình 7 người vượt biển trên chiếc ghe máy nhỏ. Đến
Mã Lai, thầy ghé vào để tiếp nhiên liệu.
Người Mã kinh ngạc và thán phục ký
tích này, ngõ ý định giúp đở nhưng
thầy từ chối, chỉ xin nhiên liệu rồi tiếp tục cuộc hành
trình đến Uùc. Báo chí thời ấy có
nhiều bài tường thuật chuyến vượt biển Papillion của Việt Nam
độc đáo này.
10. Trần
Khắc Cung
Thầy Trần khắc Cung
Cô Muôn và
học sinh bên lều trại Tết.
Thầy là thầy tu xuất.
Ai cũng khen là rất giỏi nhưng học sinh khiếp sợ vì thầy
quá khó. Thầy đem theo một con roi mây vào
lớp, ai không thuộc bài hay làm bài sai thầy
quất roi vào mông không thuơng tiếc, không kể
trai hay gái.Trong lớp thầy lại sắp các học sinh học
kém hoặc hay quậy phá vào một nhóm ở cuối
lớp, gọi là xóm nhà lá và thầy
ít khi gọi khảo bài, tuy cuối năm vẫn cho thi.
Hiện Thầy và Cô
sống ở Sài Gòn, Cô Muôn bị nệnh nặng,
các cựu học sinh tìm cách trợ giúp Thầy
Cô phần nào để báo đáp công ơn dạy dỗ
ngày xưa.
11. Huỳnh Phan Anh
Tên thật Huỳnh Thanh Tâm, người gốc Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một,
sinh ngày 03-03-1940. Học Triết từ 1960 đến 1964 khóa
4 Đại Hocỉ Sư Phạm Đà Lạt, chung khoá 4 với Nguyễn
Xuân Hoàng, Nguyễn Nhật Duật…,trước thầy Nguyễn Văn
Phúc một khoá. Dạy THD khoảng một hai năm rồi về
Sài Gòn. Lúc còn là sinh viên
đã thực hiện đặc san của trường với tiêu đề : “Chiều Hướng
Mới”. Bài tiểu luận đầu tay trên tạp chí
này: “Văn chương và kinh nghiệm hư vô”, sau in
thành sách. Ngoài công việc của một
giáo sư, còn tham gia viết lách nhiều từ 1960, đa
dạng về thể loại: sáng tác, phê bình, khảo
luận, dịch thuật. Thường được coi là nhóm tiểu thuyết mới
ở Việt Nam với Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Xuân
Hoàng…
Ông tự nhận với bạn bè
rằng mình là một nhà giáo đi lạc vào
văn học. Sau 75, vẫn tiếp tục sống ở Sài Gòn cho đến năm
1999, nhận được học bổng của Toà Đại Sứ Pháp qua
Pháp tu nghiệp về nghiên cứu, dịch thuật trong 3
tháng. Từ 2002 định cư bên Mỹ. Gần đây bị bệnh ung
thư khá nặng, vẫn tiếp tục dịch thuật và ra mắt những
công trình mới, nghiêng về triết học. Trong
các truyện đã viết (tập Những ngày mưa), ông
có nhắc nhiều đến bối cảnh trường THD; chúng tôi
đang cố công sưu tập để giới thiệu một vài trang viết ấy.
Tác phẩm đã
xuất bản:
Sáng tác:
_Người đồng hành (tập
truyện, Nxb Đêm Trắng)
_Văn chương và kinh nghiệm hư
vô (tiểu luận, 1968)
_Phía ngòai (tập
truyện viết chung với Nguyễn đình Tòan, Nxb Hồng Đức)
_Những ngày mưa (truyện vừa,
Nxb Đêm Trắng,1970)
_Đi tìm tác phẩm văn
chương (tiểu luận)
_ Ngọn lửa đìu hiu (truyện)
_Ca ngợi triết học (tiểu luận)
_Không gian và khoảnh
khắc văn chương (tiểu luận)…
Dịch thuật:
_Một mùa địa ngục (thơ
Arthur Rimbaud, Nxb văn Học)
_Truyện thơ tình yêu
(Paul Eluard, Nxb Hội Nhà Văn)
_Thơ Yves Bonnefoy (Nxb Hội
Nhà Văn)
_Chuông gọi hồn ai (tiểu
thuyết, Ernest Hemingway, NXB Văn Học)
_ Tình yêu bên
vực thẳm (tiểu thuyết, Erich Maria Remarque)
_Sa mạc (tiểu htuyết, J.M.G Le
Clézio, Nxb Hội Nhà Văn)
_Lạc lối về (tiểu thuyết, Heinrich
Boll, Nxb Văn Nghệ)
Tình yêu và tuổi
trẻ (tiểu thuyết, valery Larbaud, Nxb Trẻ)
_Những cuộc đời tỏa sáng
(nghiên cứu, André Maurois, Nxb Trẻ)
12.Nguyễn
Nhật Duật
Sinh năm 1940, quê
quán ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Học Đại Học Sư Phạm
Đà Lạt, khoa triết, chung khoá với một số cây
bút có tiếng tăm khác như Huỳnh Phan Anh và
Nguyễn Xuân Hoàng…Ra trường, gỉang dạy tại THD một số năm
trước khi về Sài Gòn. Truyện ngắn đầu tay có tựa
đề “Huyền”, đăng trên đặc san văn nghệ “Chiều Hướng Mới” của
trường. Ông có cả thảy 8 người con, nhưng chỉ có
một con trai. Oâng mất tại Sài Gòn sau mấy năm bệnh
ung thư phổi, lúc 6 giờ sáng ngày 16-02-2000. Xin
hãy đọc ít dòng ông viết cho một người bạn,
Nguyễn Quốc Trụ, để hiểu đựơc phần nào tâm tư của ông
“Thân
gửi các bạn...
Ngày
1-9 năm nay, cách đây 14 ngày, mình
lên bàn mổ và đã mất đi toàn bộ
lá phổi bên
phải vài cái bướu ung thư không dung thứ cho
lá phổi bên phải một chút nào hết.
Thôi thì với 35 năm dạy học, kết quả như thế này
cũng đủ rồi. Với lá phổi trái
còn lại, vào cuối tháng chín này,
mình sẽ trở lại Trung Tâm Ung Bướu để người
ta rà xét lại và giúp mình truy
quét tàn quân địch tức là các tế
bào ung thư
còn sót lại nếu có, để bảo vệ lá phổi
bên trái đến mãn đời mình.
...
Khao khát chính của cuộc đời mình là viết
được những điều tâm đắc, những điều
hồi trẻ mình cùng các bạn.... từng ấp ủ, và
đã từng viết được chút này chút nọ,
rải rác trên báo này báo kia
và chưa đâu vào đâu cả. Điều nhức nhối
là mình
phải làm sao thực hiện được những tác phẩm có tầm
vóc xứng đáng với mấy chục
năm sống, cảm, nghĩ, đọc và tiếp xúc với những người
và những tác phẩm đã qua.
Điều mình tha thiết nhất là viết về những hình
thái đặc sắc nhất của văn chương
và nghệ thuật, viết về những biểu hiện sâu sắc nhất của
nghệ thuật nói chung
tức là viết về mỹ học, nhất là mỹ học về văn chương đồng
thời những vấn đề lớn
của triết học, những vấn đề không ngừng làm thao thức
những tâm hồn sâu sắc
nhất của mọi thế kỷ, những vấn đề mà mình quan tâm
nhất như ý nghĩa của con
người, của cuộc đời, của tình yêu, của cái chết
trong cõi nhân sinh này và
trong vũ trụ bao la. Tất cả những điều đó rốt cuộc còn
tồn đọng lại trong ta ý
nghĩa gì, giá trị gì? Quãng đời còn
lại của mình sẽ dành cho việc viết về những
vấn đề cơ bản nhất của văn học nghệ thuật và của triết học như
ngày xưa mình
cùng các bạn đều đam mê đeo đuổi suy tư và
rung cảm với chúng. Mình hứa sẽ
không lãng phí quãng đời còn lại của
mình trong im lặng đâu...”
13.Nguyễn Đông
Ngạc
Sinh năm 1939 tại Phúc
Yên, Bắc Việt, vào nam năm 1954. Gỉang dạy tại THD trong
thập niên 60 rồi về Sài Gòn. Chủ trương nhà
xuất bản Sóng ( Sài Gòn). Đến Canada năm 1981. Mất
tại Montreal ngày 21 tháng 2 năm 1996.
Tác phẩm đã
xuất bản:
Những truyện ngắn hay nhất
quê hương chúng ta.(Tuyển chọn, giới thiệu)
14. Nguyễn Long Vân
Anh là học sinh
khóa 2 THD, sinh năm 1943, quê Thuận Giao, Lái
Thiêu. Ra trường, vào ngành Sư Phạm.
Có thời gian bị động viên, sau lại về trường, dạy Việt
Văn. Năm 1973, khi thầy Phúc làm Hiệu Trưởng, Thầy
là Tổng Giám Thị. Thầy có vóc dáng
của một sĩ quan hơn là thầy giáo dạy văn, đi đứng oai vệ,
giọng nói hơi khàn, to tiếng, có nụ cười hiền
lành, chơn tình nên học sinh thương mến, gần gũi
hơn là sợ hải.
Thầy Nguyễn Long Vân, người
đứng đầu, bên trái.
Dịp tất niên đón
mừng tết Nhâm Tí, 1972, Thầy yêu cầu trong lớp mỗi
người phải làm một bài thơ mừng xuân mới, xong
thì chép ra 50 bản đủ để phát cho tất cả bạn
bè trong lớp. Không biết làm thơ nhưng ai cũng phải
rán, rồi lại chép đổ mồ hôi mới xong. Mấy mươi năm
sau, khi họp mặt bạn bè, có người còn giữ được
những bài thơ thời ấy, ai xem cũng cảm động.
Sau 75 Thầy đi học cải tạo
rồi về, từ giã nghề dạy học, bắt đầâu sống đời của một
nông dân tại Phú Hữu, đất bên vợ. Thầy
làm rẩy, chăn nuôi bò, da sạm nắng, tay chân
gân guốc, dầm mưa dãi nắng không thua một nông
dân chánh hiệu. Một người học trò cũ, làm
ngành chăn nuôi, thương thầy, nhân có dịp
quảng cáo giới thiệu sản phẩm thức ăn cô đặc cho
bò, đã mời thầy xuất hiện ít phút trong
khúc phim đó. Khi phim chiếu trên truyền
hình, nhiều người ngạc nhiên nhìn thấy lại Thầy
Vân, thì ra Thầy vẫn còn sống.
Hai đứa con trai Thầy nay
đã trưởng thành và có việc làm
khá tốt. Thầy chăm sóc khu vườn của mình
khá đẹp. Khu vườn cách xa mặt đường, xanh mát,
yên tĩnh, trong lành, như tâm hồn Thầy. Một khỏang
thiên nhiên hiếm có ở thời nay, khi mà
các khu công nghiệp mọc lên như nấm, môi
trường ô nhiễm. Tuy nhiên, dường như:
“Những phường bất
nghiõa xin đừng đến
Hãy để thềm ta xanh sắc
rêu”
15. Lưu Đức Trung
Thầy Trung từ Sài
Gòn về dạy khỏang năm 1973. Thầy có nước da trắng,
dáng người thấp, khi nói chuyện hai hàm răng
khít lại. Học trò sợ thầy vì nói rằng những
người nói năng như thế thì khó tính lắm.
Thế nhưng thầy ít khi hù dọa hay bắt nạt học sinh,
không hay pha trò nhưng tính khá sôi
nổi. Thầy ham thích thể thao, môn chơi khá nhất
là bóng bàn, và có nhiều đóng
góp cho sinh họat thể thao của trừơng.
Vào những ngày
cuối của miền nam, có lần thầy đang giảng bài thì
lúc đó trận đáng trong những vườn cây miệt
An Sơn, Thạnh Quý đang diễn ra. Tiếng bom dội rung chuyển cả
trường, nên dù thầy cố gắng nói thật to nhưng
không thể át nỗi tiếng bom, đành tạm nghĩ, thầy
và trò nhìn nhau, đầy vẻ lo lắng, chưa biết điều
gì sẽ xảy ra. Mọi người đâu biết rằng đó là
buổi học sau cùng của thầy và trò với nhau.
Sau 75 một thời gian
có lần Thầy về lại Bình Dương, tư cách là
thành viên trong một đòan xiếc. Khi thầy đến sở
TTVH tỉnh Sông Bé để xin cấp giấy phép biểu diển,
người cán bộ trách nhiệm là một học trò cũ
của thầy, anh Quách Đấm. Rất ngạc nhiên khi gặp lại Thầy
trong hòan cảnh ấy, anh sốt sắng tìm cách
giúp đở Thầy. Đòan xiếc ấy ra đi, đến bây giờ
không còn nhận đựơc tin tức gì của Thầy nữa.
Bây giờ Thầy ở đâu? Gánh xiếc rong ấy có
còn không?
16. Nguyễn Thị Hưng
Cô Hưng và ba học sinh khoá 1 THĐ
Cô Hưng dạy môn Vạn Vật tại trường từ những khóa đầu
tiên. Cô gốc người Cai Lậy. Người nhỏ nhắn nhưng
thùy mị và duyên dáng.
Sau khi rời trường THD, không
ai biết cô đi đâu và cụôc sống ra sao, thời
gian thường xóa nhòa mọi vịêc như thế. Một
hôm anh Tường báo cho anh Liệu, cùng học
khóa 3 với anh biết rằng hiện giờ cô sống ngay chợ Cai
Lậy, hòan cảnh rất khó khăn. Anh Liệu liền về đó
thăm cô. Cô sống đơn độc trong căn nhà xưa
xiêu vẹo do cha mẹ để lại, mái đã dột nát.
Quá xúc động trước những gì chứng kiến, Anh Liệu
kể lại cho anh Nuôi nghe hết sự tình. Anh Nuôi xuống
nhà cô, rước cô về ở nhà anh dăm ngày
để anh có dịp chăm sóc cô và thông
báo cho bạn bè cũ đến thăm. Sau đó, các
anh, trong đó có anh Tám Tàng, đạp xe đi
tìm gặp anh em bạn học cũ để quyên góp tiền
xây lại cho cô một căn nhà. Có những học sinh
nay sống ở nước ngòai biết chuyện cũng gởi tiền về giúp.
Kẻ có công , người có của, sau cùng
thì căn nhà tường tuy nhỏ bé đơn sơ nhưng khang
trang ấm cúng cũng hòan thành. Các anh tổ
chức buổi lễ nhỏ về nhà mới, thông báo bạn
bè về tham dự. Hôm đó Thầy Phúc, Thầy Nhung
cũng có mặt. Bà con lối xóm khá ngạc
nhiên khi thấy những vị khách lạ từ phương xa
áo quần sang trọng,có vị râu tóc bạc phơ lại
là những học sinh bé nhỏ của bà lão
nghèo khổ côi cút sống lặng lẽ bao năm ở gần
đó mà họ không hay biết. Câu chuyện thắm
thiết tình nghĩa cảm động này sau đó được
báo đài điạ phương tường thuật, như câu chuyện cổ
tích của thời nay.
17. Trịnh Thị Tuyết Mai
Vào khỏang năm 1973,
sân trường THD bỗng nhiên rực rỡ tươi thắm hẵn lên
vì sự xuất hiện đồng lọat của nhiều cô giáo trẻ
xinh đẹp về dạy ở trừơng, như Cô Mai (dạy Vạn Vật), cô
Quì (dạy Văn), cô Hòang (Anh Văn), cô
Duyên…Mỗi khi các cô đến trường, ngừoi ta lại được
nhìn ngắm những tà áo dài màu sắc
khác nhau, bao giờ cũng lộng lẫy, tha thướt. Chiến tranh
lúc này ngày càng ác liệt, bom đạn
rung chuyển cả phòng lớp. Lòng các thầy xôn
xao, không biết vì bom đạn hay vì các
cô nhưng lòng bọn học trò thì có, hầu
hết dường như đều bị rung lên những nhịp điệu rất mới mẻ.
Trong lớp, không
khí dường như rộn rạo khác thường, nghe cô giảng
bài thì ít, nhìn ngắm và thưởng thức
mùi nuớc hoa thơm phức mỗi khi các cô đi ngang
thì nhiều, và bọn trẻ tha hồ mà bàn
tán, phẩm bình…
Sau 75, dần dà rồi mỗi
người một phương trời cách biệt, cô Hòang, Cô
Duyên cùng chồng ra nước ngòai, cô Quì
về Sài Gòn, cô Mai tiếp tục ở lại Bình Dương
dạy học…
Bãi cỏ sân
trường ngày nào in dấu guốc nhịp nhàng của
các cô dừơng như cũng úa đi, không còn
xanh mướt như xưa.
18.Trần Văn Giàu
Thầy dạy Pháp văn, từ
Bình Long chuyển về. Giờ Thầy lên lớp, bọn học sinh hay
quậy phá. Có hôm đang trong học, nhìn thấy
một đám cưới ngòai đường, chị bạn rắn mắt nhất lớp lấy
cây thước gõ xuống bàn, miệng nói, giọng hơi
nhừa nhựa:
_Đám cưới lớn quá!
Cả lớp không hẹn
mà đồng thanh lập theo:
_Lớn
quá!
Chị kia lại tiếp qua
câu khác:
_Cô
dâu mặc áo đẹp quá!
_Đẹp
quá!
Cứ thế, bọn học sinh nhanh
chóng tạo ra một trò chơi rất vui vẻ và đầy cảm
hứng, phải khó khăn lắm thầy mới dẹp được cái trò
nghịch phá đó.
Một lần khác, khi thầy
còn ngồi trong lớp, bọn học sinh chơi ác khóa hết
cửa lớn lại, Thầy đành phải nhảy qua cửa sổ, sơ suất thế
nào lại té bò lăn trên bãi cỏ,
làm bọn quỷ nhỏ đựơc dịp cười no bụng.
Lâu quá,
khó mà kể hết những trò nghịch ngợm chọc
phá Thầy hồi đó, nhưng có một chuyện mà bọn
họ không bao giờ có thể quên, năm sau, Thầy
Giàu chết, vì chứng lao phổi. Hèn chi khi bước đi,
vai Thầy có hơi rúc lại, và Thầy nói
nhỏ khó nghe. Hồi đó, nhớ lại mới thấy đôi khi Thầy
ngồi im lặng, có vẻ buồn.
Khi người ta biết hối hận,
xót xa, thì tất cả đã không còn kịp
nữa.
19. Chu
Bá Cao
Thầy dạy môn
hóa rất hay, là người miền Bắc, dong dỏng cao, hơi ốm,
trán hói. Nói chuyện duyên dáng,
giảng bài sinh động và dễ hiểu. Những học sinh
thích môn Hóa gặp thầy thì mê lắm, tuy
nhiên học sinh kém sợ thầy phát rét
vì mỗi khi không thụôc bài, nói
ú ớ là thầy cho zero ngay. Do vậy, họ đặt cho thầy biệt
danh là “Đại lý
bán zero”. Đến buổi học với Thầy, nhiều đứa không
thụôc bài đôi khi cúp cua đi lang thang trong
vườn cây trái trứơc trường vì sợ dính một
cái zero thì tháng đó tuột hạng khó
kéo lên được. Thầy giảng bài nhiều, chỗ nào
cần lắm thì mới đọc cho học sinh chép, mà
ít khi đụng đến sách giáo khoa.
Trong buổi lễ tất niên
, thầy hát bài “Se chỉ luồn kim” hay ít, vui
nhiều, và rất dễ thương. Sau 75, không biết Thầy đi
đâu.
20. Nguyễn Văn Lộc
Thầy Lộc dạy môn Vật
Lý, có lẽ là người được học sinh nhớ đến nhiều
nhất mỗi khi nói đến môn học này. Thầy có
dáng người dong dỏng cao, hơi gầy, nói năng lưu
lóat. Ít khi phải cầm đến sách giáo khoa,
giảng bài ngắn gọn mà rất dễ hiểu. Thầy dạy ở THD đựơc
mấy năm, khi trường giải tán, Thầy chuyển về cấp III Nguyễn
Đình Chiểu ở thị xã, tức trường Thánh Giuse cũ.
Tại đây Thầy dạy một thời gian nữa rồi tự nghỉ việc, sau khi cưới
một người vợ, tên Ảnh, dường như là học sinh cũ của Thầy.
Về Tân Khánh làm thợ bạc ít lâu
thì Thầy ra nước ngòai. Không biết hiện nay Thầy ở
đâu, có về Việt Nam thăm lại trường cũ trò xưa
không, nhưng học sinh thời đó khi có dịp gặp lại,
thỉnh thỏang vẫn còn nhắc đến Thầy.
Bấm vào đây để đọc
phần tiếp theo