Trường Xưa Trong Trí Nhớ
Hoàng Anh
Phần 4
THẦY CÔ
Phấn trắng là phấn trắng
thôi
Trong tay Thầy phấn hóa lời
yêu thương
Bảng đen là tấm gỗ vuông
Bên Thầy bảng hóa
thành đường em đi.
Số Thầy Cô đã giảng dạy tại trường THD trong hai mươi năm
là rất nhiều, không thể kể ra hết. Giờ đây người
còn, người mất, kẻ chân trời, người góc bể. Tất cả
đều đã đóng góp công sức vào việc
đào tạo bao nhiêu thế hệ học sinh ở trường THD
và lưu lại những hình ảnh rất đẹp trong lòng học
sinh nơi đây, với lòng biết ơn và thương nhớ. Phần
này mới tạm ghi lại được chân dung một số vị, những người
mà may mắn chúng tôi tìm được tư liệu, thứ
tự trình bày theo sự ngẫu nhiên. Những vị
còn lại, mong rằng sẽ được sự cộng tác của các
Thầy Cô và các đồng môn THD để bổ sung
thêm trong tương lai.
1. Nguyễn Mạnh Cẩm
Thầy là người miền Bắc di cư vào nam, có mặt
tại THĐ từ thưở ban đầu. Dáng người cao, mảnh khảnh, tóc
bềnh bồng. Vào lớp thầy thường đứng, ít khi ngồi, mắt
thì nhìn xa xôi trên trần nhà. Thế
nhưng khi đã bắt đầu nói thì say sưa và học
sinh bị cuốn hút như nuốt từng lời của thầy. Nửa thế kỷ sau, hai
người học sinh của thầy ngày tháng xa xưa ấy, thầy
Phúc và Thầy Phát, nay đã đến tuổi cổ lai
hy vẫn còn hứng thú cùng nhau nhắc lại thầy Cẩm
và đoạn văn thầy giảng trong quyển “Một thời để yêu
và một thời để chết” của nhà văn Đức Remarque. Phải
nói rằng thầy Cẩm có khả năng khêu gợi rất lớn
lòng đam mê vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật cho học sinh.
Năm 1995, khi ở nước ngoài, Thầy có bài viết
khá cảm động về ngôi trường THĐ : “ Trường xưa kỷ niệm”,
nay thầy Phúc vẫn còn lưu giữ. Khi viết Thầy lấy
bút hiệu là Nguyễn Đức Cẩm, Đức là tên
người vợ của Thầy. Hiện nay Thầy và Cô đang sống ở Hoa Kỳ,
do bị bệnh nên nay Thầy không còn đựơc khoẻ lắm.
2. Phạm Ngọc Em
Nguyên quán Quảng Ngãi, đậu Tú tài
phần I, về dạy tại trường từ buổi đầu, vừa dạy vừa tiếp tục học, dạy cả
trường công và trường tư. Gia đình đông
người, lại khó khăn nên thầy phải ra sức làm việc
để lo sinh kế cho cả nhà. Tuy vậy thầy dạy dỗ học sinh hết sức
nhiệt tâm, có nhân cách, được nhiều người
kính trọng. Sau giữ chức Giám Học của trường. Nhà
ở Sài Gòn, sau qua Canada và mãn phần ở
đó cách đây vài năm.
3. Nam Phong
Trường có giáo sư dạy vẻ như thầy Lê Bình,
Thầy Khương, Thầy Duy…Có lẽ do đặc điểm nghề nghiệp, khi
sáng tạo nhà họa sĩ phải làm trong im lặng
lâu ngày thành thói quen, mà
các thầy dạy vẻ có vẻ trầm tính và
công việc phẳng lặng, ít để lại dấu ấn gì rõ
nét lắm. Vui nhất phải nói là các
giáo sư dạy nhạc, ấn tượng sâu đậm thì có ba
người: thầy Nam Phong, Thầy Nguyễn Bé Tám và
Thầy Anh Việt Thu.
Thầy Nam Phong, tên thật là Nguyễn Trường Xuân, sinh
năm 1932. Thân sinh của Thầy là cụ Nguyễn Văn An, thường
được gọi là ông Đốc An, nguyên Trưởng Ty Tiểu Học
Bình Dương, và giữ chức Hội Trưởng Hội Phụ Huynh trường
THĐ trong nhiều năm.
Thầy được mời dạy môn nhạc, khoảng 1956-1957. Được nhiều người
biết danh nhờ Thầy viết khá nhiều sách dạy nhạc Tây
Ban Cầm, thời đó bày bán đầy các hiệu
sách. Nhạc phẩm sáng tác như : Một mùa
hè, Sinh viên Việt Nam (phát thanh trên
đài Pháp Á 1951), Mưa rơi biên thùy…
Đến 1992, bệnh tim mạch tái phát, Thầy về Paris
ghé thăm hội âm nhạc S.A.C.E.M lần cuối rồi chuẩn bị
lên đường về nước.
Năm 1993 Thầy từ giả cõi đời tại quê nhà qua cơn
nhồi máu cơ tim. Thầy để lại một số tác phẩm chưa
hoàn thành, các bản thảo đang viết dở dang. Trước
khi mất Thầy trăn trối, căn dặn người em ruột là Thầy Nguyễn
Trung Thu, cùng ngừơi đệ tử ruột đang dạy học tại Pháp
có trách nhiệm phải hoàn thành tốt
các việc Thầy đang làm dang dở, sớm bắt tay vào
việc lo xuất bản sách nhạc mới dành cho độc gỉa
trình độ trung cao thì mới an lòng nhắm mắt.
4. Nguyễn Bé Tám
Guitar và Clarinet (1927) Juan Gris.
Quê ở Bến Thế, là giáo sư dạy nhạc từ buổi đầu
trường mới thành lập và gắn bó lâu nhất với
trường. Thầy giảng rất sinh động, nói năng say sưa, hấp dẩn,
nhưng đôi khi lại đi ngoài đề. Xuất thân từ một
vùng nông thôn, chiến tranh thường xảy ra, gia
đình nhiều người đi làm cách mạng, nhưng có
lẽ do có lòng say mê và năng khiếu đặc
biệt về âm nhạc mà Thầy chọn con đường dạy học. Thầy
có chiếc xe vespa xanh màu nước biển, tay và cổ
áo thường gài nút trông rất nghiêm
túc. Có tính lễ nghi thái quá
thành ra hơi kiểu cách, và khi có chuyện
tức giận phải rầy la học sinh thì quát tháo rất
nặng lời. Người thương người ghét Thầy thì đủ cả, nhưng
phải nhìn nhận rằng Thầy đã góp công rất lớn
về phương diện văn nghệ và tạo nên không khí
sinh động vui nhộn cho trường và là một trong những
khuôn mặt giáo sư để lại nhiều ấn tượng nhất.
Từ trái, hai người ngồi là Thầy Nguyễn Kim Lân
và Thầy Nguyễn Bé Tám.
Công tác tại trường một thời gian sau 75, Thầy chuyển về
Trung Học Sư Phạm Sông Bé, có lúc nuôi
dê để có thêm thu nhập. Nhìn thầy chăn bầy
dê, đôi khi gần cả trăm con, dễ nhớ hình ảnh
của ông Tô Vũ trong chuyện Tàu thời xưa. Thời gian
sau thầy nghĩ dạy, làm đủ thứ nghề lặt vặt những năm sau, chắc
để đủ sức nuôi một bầy con còn nhỏ và khá
đông. Lúc đó, học trò cũ của thầy khó
mà không nghe nhớ hình ảnh thầy vận hết hơi, nhắm
mắt phùng môi chìm đắm trong tiếng kèn
clarinet cao vút du dương và sầu thảm năm xưa.
Hiện nay con cái thầy đã lớn, có công ăn
việc làm, cụôc sống thầy có phần thanh thản, ung
dung.
Mừng cho thầy, đấng cao xanh dường như luôn vẫn có nhiều
cảm tình với người nghệ sĩ?
5. Anh Việt Thu
Cùng thời với thầy Bé Tám, còn có
một giáo viên dạy nhạc nữa, nếu thầy Bé Tám
đảm trách các lớp nhạc ở trường nam, thì người kia
ở trường nữ, đó là Anh Vịêt Thu.
Anh Việt Thu thật ra là bút hiệu của một nhạc sĩ nổi
tiếng ở miền nam trước 75, còn tên thật của Thầy là
Hùynh Hữu Kim Sang. Sinh năm 1940, quê ở Cái
Bè-An Hữu (Tiền Giang). Bút danh của thầy theo lời của
người bạn là Vũ Anh Sương xuất phát từ câu chuyện
gia đình. Tên Việt Thu là em trai của thầy, do phải
bảo bọc người em nên đặt tên như thế để luôn nhớ
trách nhiệm làm anh.
Thầy dạy nhạc tại THĐ trong các năm 1964, 1965, rồi chuyển về
làm việc tại Sài Gòn.
Thầy sáng tác từ rất sớm, nhạc phẩm đầu tay “Giòng
An Giang” ngay lập tức nổi tiếng. Tứ đó, Thầy sáng
tác khá đều tay và có nhiều nhạc phẩm đi
vào lòng người và sống mãi với thời gian.
Thầy được coi là một trong những nhạc sĩ đưa những âm điệu
nhẹ nhàng bình dân vào nhạc cùng với
các nhạc sĩ Trúc Phương, Châu kỳ, Minh kỳ, Lam
Phương…(như điệu boléro, ballade, habanara…) và đã
từng đỗ hạng ưu khóa I trường Quốc Gia Aâm Nhạc và
Kịch Nghệ Sài Gòn.
Âm nhạc của Thầy mang đậm tình quê hương dân
tộc, khát vọng hòa bình rất chân
thành. “
Tôi xin đa tạ
ngày nao súng phải lạnh lùng nắng hạ vàng
rơi phủ bờ vai, lời ai ru gió hiu hiu buồn…Tôi xin đa tạ
lời ca tiếng ru êm đềm ôi lời ca đã xua chinh hciến.
Xin đa ta mẹ quê vất vả thật thà…” (Đa tạ)
Khi về THĐ, Thầy phụ trách giảng dạy bên trường nữ
và trở thành một hiện tượng khi chinh phục được
lòng mến mộ rất đặc biệt của học sinh dành cho
mình. Một giai thọai đựơc truyền tụng trong nhà trường về
câu chuyện “ vòng tay học trò” giữa Thầy và
cô nử sinh hoa khôi của trường. Một anh học sinh thời
đó, nay tuổi đã ngọai lục tuần nhớ lại: “Thầy Thu rất đẹp
trai, tui là nam mà còn mê thì chuyện
ấy không có gì là lạ cả”. Và anh vẫn
còn nhớ bài hát điệu valse ngọt ngào
bát ngát hương vị sông nước Cửu Long Thầy đã
dạy:
“Dòng An Giang sông
sâu nước biết, dòng An Giang cây xanh lá
thắm, lã lướt về qua Thất Sơn…
Dòng An Giang đáy nước
in sâu, nhịp cầu tre ngắm bóng say sưa, nắng vẫn chiếu
trên làn nước nhấp nhô…Đây những người
thôn nữ xinh duyên dáng chuyền tay dắt nhau
múc mấy vầng trăng đổ đi…”
Lương bổng thời đó rất khá nhưng do tính
tình nghệ sĩ nên Thầy cũng túng thiếu dài
dài. Một kỷ niệm đáng nhớ về Thầy là dịp lễ tất
niên năm ấy, tổ chức tại Hội trường Búng. Thầy chỉ huy
nhóm ca sĩ của mình trình bày nhạc phẩm
“Lòng mẹ”. Thầy chọn một nam sinh, anh Du là giọng
hát chính đề khởi xướng. Bản nhạc làm cả hội
trường xao xuyến. Thầy Bé Tám cho học trò của
mình hát “ Hè về” cuả Hùng Lân, một
bản nhạc “ruột” của tuổi học trò. Nhờ sự đua tranh của hai Thầy,
quan khách và học sinh hôm ấy đựơc dịp thưởng thức
một chương trình âm nhạc học đường hào hứng,
sôi nổi và xuất sắc, sau này không có
cơ hội lập lại được.
Thầy mất khỏang thời gian gần sự kiện 1975 tại Sài Gòn.
vào thời điểm những ngày cuối cùng của chế độ miền
nam, nhạc phẩm “Trên đầu súng quê hương” do thầy
sáng tác được phát thường xuyên trên
làn sóng phát thanh, truyền hình, và
là nhạc phẩm sau cùng còn được phát trước
những ngày cuối cùng của chế độ. Hiện còn
bà vợ là cô Trần Nữ Hiệp và người con trai
Việt Bằng sống ở Sài Gòn.
Tác phẩm:
Cuốn Theo Chiều Giĩ
Da Tạ
Dường Chúng Ta đi
Giịng An Giang
Hai Vì Sao Lạc
Máu Chảy Về Tim
Mình Nhớ Nhau Khơng
Một Mình Thơi
Mùa Xuân Hát Cho Em
Người đi Ngồi Phố
Nhớ Nhau Làm Gì
Như Giọt Sầu Rơi
Tám điệp Khúc
Trên đầu Súng
Vuốt Mặt …
6. Tô Hoà Dương
Vào lớp, thầy Dương thường bố trí một vài em canh
cửa, sợ thầy Di đến giám sát bất ngờ, vì Thầy
thích kể chuyện, nhất là những truyện do ba của Thầy
sáng tác, nhà văn Bình Nguyên Lộc.
Bình Nguyên Lộc, quê ở huyện Tân Uyên,
thế nên cả hai nơi Biên Hoà và Bình
Dương đều có thể tự hào xem Bình Nguyên Lộc
là nhà văn của quê hương mình. Ông
sáng tác đa dạng, sung mãn, đã xuất bản
nhiều tác phẩm biên khảo, thơ, truyện dài
(vài chục cuốn), truyện ngắn (được cho là cả ngàn
truyện, dù kiểm tra được chắc chắn thì khoảng vài
trăm, đủ để được nhìn nhận là người viết truyện ngắn
nhiều nhất Việt Nam). Điều đáng nói là sáng
tác của ông có rất nhiều bối cảnh tại Bình
Dương, nơi ông đã từng có thời gian làm
vịêc và sinh sống trước khi chuyển về Sài
Gòn.
Em Thầy là Tô Mỹ Hạnh cũng dạy tại trường Nữ, dù
thời gian dạy ngắn nhưng có nhiều tình cảm giữa cô
và trò nơi đây. Chuyện này đã tạo
nguồn cảm hứng cho nhà văn Bình Nguyện Lộc viết một
truyện ngắn tựa đề là Diễm Phượng, chắc là để tặng cho
cô con gái. Một lá thư dài cô viết cho
người học sinh tên Nguyễn Thị Nga, có ướp nhiều hoa
lá khô, nay vẫn còn đựơc gìn giữ cẩn thận,
đủ nói lên tình cảm của họ ngày ấy.
Anh của Thầy, Tô Dương Hiệp, từng học tại trường tiểu học
TânThới , Lái Thiêu, sau là Giám Đốc
Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, đã mất trứơc năm 75.
Hiện nay Thầy Dương và Cô Hạnh đang sống ở nước
ngoài.
7. Lê Vĩnh Thọ
Thầy sinh năm 1942 tại Bắc Việt. Sau vào Nam sống ở Phan Rang,
học Đại học Sư Phạm Sài Gòn, khoa Việt Hán. Tốt
nghiệp, dạy ở Trà Vinh, Thốt Nốt, trước khi chuyển về THĐ
vào năm 1971.
Có thời gian bị động viên đi sĩ quan, nhờ khả năng văn
chương nên không phải vào đơn vị tác chiến.
Từng nằm trong ban biên tập tạp chí Văn Học Sài
Gòn. Thầy là người tài hoa, sáng tác
thơ văn từ thời còn trẻ, đã xuất bản chung với Luân
Hoán và Phạm Thế Mỹ một thi tập và nhiều
bài viết đăng trên các tạp chí văn chương
có uy tín thời đó.
Là giáo sư phụ trách các lớp C của
trường, tức ban văn chương. Sớm nổi tiếng là người có khả
năng dạy học quyến rũ, thu hút học sinh, nhưng tính
tình có vẻ khép kín nên ít
giao lưu với bạn bè.
Thầy Võ Tấn Phước, một đồng nghiệp dạy chung trường, có
những nhận xét về Thầy Thọ như sau:
“Lê Vĩnh Thọ người tầm thước,
da thịt hồng hào sáng sủa, mái tóc bềnh
bồng, ánh mắt sáng và nhanh, nhìn ai như
thầy hết cả ruột gan người ta, thuộc hạng đẹp trai. Đặc biệt cái
mũi cao thẳng tắp nở nang, đầu mũi tròn trịa, đều đặn,
kín đáo. Mỗi lần gặp Thọ, tôi kín đáo
quan sát và nghĩ thầm trong đầu bạn mình có
cái mũi tốt như vậy, đặc biệt là sơn căn cao đầy, tiếp
giáp thẳng với ấn đường, không gãy khúc, đứt
đoạn, mặt mũi phân minh, mắt sáng môi hồng, tại sai
đời lại vất vả, bôn ba, thiếu trứơc hụt sao đến vậy? Có lẽ
tại dáng đi.
….Lê Vĩnh Thọ nghiêm
trang, ít cười, ít nói, nhưng khi nói
thì hùng biện, lưu loát, lập luận vững chắc,
đôi khi châm chọc không kiêng dè, dễ
làm mích lòng ngừơi đối thoại.”
(Lê Vĩnh Thọ, Thời ở Trịnh
Hoài đức Bình Dương)
Sau 75, làm nhiều nghề để mưu sinh, có lúc phải
chạy xe thồ chở than từ Phú Giáo, Chơn Thành về
Sài Gòn rất vất vả, có khi còn bị bắt, lỗ
nặng. Vợ thầy bán nước mía tại nhà, giúp
chồng gánh vác việc sinh kế trong một gia đình
khá đông con. Đã vậy vẫn chưa được yên,
có lần Sở TTVH cho xe xuống tịch thâu rất nhiều
sách, những người bạn thân quí nhất của thầy. Mất
sách, với một nhà giáo, một nhà thơ
thì dĩ nhiên đau đớn hơn mất mấy bao than nhiều lần.
Qua sự giới thiệu của bạn bè, thầy nhận dạy một vài lớp
Anh Văn ở Sài Gòn cho đến nay. Khi bầy con của thầy
trưởng thành, có công ăn việc làm, đời sống
của thầy cũng dần trở nên nhàn nhã.
Hiện nay thầy sống cuộc đời ẩn dật, ít giao lưu, vui với con
cháu và thỉnh thoảng nâng ly rượu với vài
bạn bè hoặc dăm đứa học trò thân thích,
những người sau bao cuộc đổi dời dâu biển, vẫn còn
quý cái khí tiết bất năng khuất của một kẻ
sĩ như Thầy.
Tác phẩm đã xuất bản:
1.Hoà bình ơi hãy đến (Chung với Luân
Hoán, Phạm Thế Mỹ)
2.Lục bát ca ( Chung với Luân Hoán, Vĩnh Điện)
3.Nhịp buồn sáu tám
Bấm vào đây để đọc
phần tiếp theo