Trường Xưa Trong Trí Nhớ
Hoàng Anh
Phần 3:
HIỆU TRƯỞNG
(tiếp theo)
7. Thầy Lê Tấn Lộc (1969-1972):
Sinh quán Bạc Liêu, trú quán Vĩnh Long
sinh năm 1935 (Thầy có người em là nhà văn Kiệt Tấn,
tức Lê Tấn Kiệt, đang sinh sống tại Paris). Nhờ học giỏi -thầy đậu
thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh viên khóa I Đại Học Sư
Phạm, ban Triết- thầy được học bổng du học tại đại học Sorbonne (Paris).
Sau khi tốt nghiệp, thầy trở về Việt Nam nhập ngũ, và sau khi giải
ngũ được chuyển về dạy Triết tại THĐ từ năm 1966.
Nhắc đến thầy Lộc, học sinh vẫn còn nhớ hình ảnh một ông
thầy đẹp trai, phong độ và dạy học có vẻ “tài tử”. Phong
cách phóng khoáng, thầy mang dáng dấp hơi “Tây”.
Nhiều học trò cảm thấy thích môn Triết và tư tưởng
được mở mang khai phóng nhờ những luồn tư tưởng triết học do
thầy chuyển đạt. Vào lớp, thầy nói lưu loát, ít
khi dùng đến sách giáo khoa, thầy cũng hay sắp đặt bàn
ghế thành hình vòng cung, trước mặt mỗi người để một
bảng tên hay có khi chỉ cần số thứ tự. Thầy chuộng lối hướng
dẫn cho mọi người được tham gia đóng góp ý kiến hay
thảo luận. Phương pháp mà ngày nay người ta hay nói
đến: “Lớp học lấy trò làm trung tâm” hoá ra đã
được thầy áp dụng từ rất lâu.
Năm 1969 thầy là Hiệu Trưởng. Đến tháng 6 năm 1971, Bộ Giáo
Dục đựơc mở rộng thành Bộ Văn Hóa Giáo Dục và
Thanh Niên, cơ cấu tổ chức và nhân sự có nhiều
thay đổi. Trong kế hoạch “địa phuơng hóa giáo dục”, năm 1972
Bộ thiết lập 4 khu Học Chánh để đại diện Bộ bên cạnh các
Vùng Chiến Thuật và điều hành các Sở Học Chánh
sẽ được thiết lập tại các tỉnh nhằm tập trung hai ngành trung
và tiểu học thành một cơ sở giáo dục thống nhứt. Năm
này, thầy rời trường THĐ đảm nhiệm chức vụ Trưởng Khu Học Chánh
Vùng III . Các Khu Học Chánh sau đó bị giải thể
sau hai năm họat động qua kế hoạch “cải tổ hành chánh” theo
đường lối mới của Phủ Tổng Thống.
Một học sinh viết về thầy:
“Thầy Lê Tấn Lộc: rất năng động và nhiều sáng kiến.
Trường THĐ trong thời gian thầy làm Hiệu Trưởng (1969-1972) rất phát
triển và nổi bật cả về học tập cũng như về sinh hoạt học đường. Về
học tập, học sinh đậu cao và đựơc tuyển vào các trường
đại học nhiều. Về văn nghệ, trường đã tổ chức được hai buổi đại nhạc
hội gây quỷ hiệu đoàn tại rạp Thanh Bình và một
chương trình văn nghệ trên đài trùyên hình
quốc gia. Về thể thao, đội bóng chuyền THĐ đoạt giải vô địch
tỉnh Bình Dương năm 1971. Những thành tích của THĐ đã
giúp thầy Lộc đựơc thăng chức Trưởng Khu III Học Chánh (Miền
Đông Nam Phần) (Hoài Hương, Nhớ về THĐ, BD)
Thầy Lộc tại Văn phòng Hiệu Trưởng trường THĐ năm 1970
Năm 1980, cam lòng rời bỏ quê hương, thầy sang định cư tại Canada.
Qua sự giới thiệu của một số giáo sư cũ tại đại học Sorbonne, thầy
trở lại đại học nầy hoàn tất học trình tiến sĩ đã bỏ
dở dang khi thầy về nước nhập ngũ theo lệnh động viên…
Tại Montréal, thầy đã đảm nhận chức vụ Tổng thư ký và
Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Trung Tâm Văn Bút Québec
(1991-2006). Và công tác với các báo Việt
Luận (Úc), Dân Việt (Đức), Tập San Nghiên Cứu Văn Hoá
Đồng Nai, Cửu Long, Sài Gòn Nhỏ, Tân Văn, Văn, Văn Học,
Việt Nam Tự Do, Thế kỷ 21 (Hoa Kỳ), Thời Báo, Sóng, Nắng Mới
(Canada)…
Năm 1995, thầy bị chứng nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde) nhưng
may mắn không ảnh hưởng nhiều đến tình trạng sức khỏe tổng quát.
Nhân một lần về nước năm 2003, sau 28 năm biệt xứ, Thầy có ghé
thăm lại trường cũ và học trò xưa…mà thầy đã
ghi lại trong một bài viết, tựa đề Sổ tay hành trình
(III) - “Quê hương ruồng bỏ”.
Email: letanloc_35@yahoo.ca
8. Nguyễn Văn Phúc (1972-1973):
Khi nói đến trường THĐ, có một người không thể không
nhắc đến là Nguyễn Văn Phúc. Thầy sinh năm 1942 tại xã
An Thạnh, gần chợ Búng.Thầy nguyên là học sinh khoá
đầu tiên của trường THĐ. Gia đình nghèo, may nhờ đậu
được vào THĐ, việc học ở trường công lập là gần như miễn
phí, lại có học bổng nên thầy có thể đeo đuổi vịêc
học đến lớn. Tốt nghiệp Cử Nhân Triết khóa 5 tại đại học Sư
Phạm Đà Lạt, chung lớp với một sinh viên sau này là
Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát. Nhận nhiệm sở tại THĐ từ 1965, giảng dạy,
và đảm nhận thêm công việc của một Phụ Tá Giám
Học (1969-1971).
Năm 1972, thầy Phúc thay thế thầy Lê Tấn Lộc làm
hiệu trưởng THĐ. Trong khỏang thời gian ngắn ngủi này, Thầy đã
cho chỉnh trang công viên trước văn phòng trường và
đặt nhà điêu khắc lừng danh Lê Thành Nhơn đúc
pho tượng danh nhân THĐ đặt giữa chiếc hồ nhỏ trong công viên.
Thầy cũng cho phục hồi và phát triển thư viện của trường đã
ngưng họat động thời gian trứơc đó. Đồng thời một dãy phòng
học mới được xây cất, đối diện phòng Thí nghiệm, kết
nối dãy lầu và phía phòng học dọc hàng
rào trường Cộng Đồng. Như vậy, đến lúc này, những hạng
mục công trình chính của trừơng tạm xem như đã
hòan chỉnh, bốn phía của sân banh đựơc vây quanh
bởi các dãy phòng, ở chính giữa dựng lên
một cột cờ. Ngoài hành lang các phòng học, vài
hàng chữ được viết khá to, từ xa vẫn đọc đuợc, như : “Bây
giờ ráng học, ngày sau giúp đời” .
Hệ thống quản lý giáo dục quốc gia lúc này
có nhiều cải tổ do nhu cầu phát triển ngày càng
mạnh mẽ của tình hình giáo dục trong cả miền Nam. Nha
Trung Học không còn đủ sức trực tiếp điều hành công
việc giáo dục của tất cả các trường trung học trên phạm
vi cả nước, do vậy từ 1973, Sở Học Chánh ra đời. Đây là
cơ quan giáo dục địa phương coi cả trung tiểu học phổ thông
và chuyên nghiệp trong tòan tỉnh. Sở này thuộc
Nha Học Chánh Bộ Giáo Dục, lúc này trên
tòan quốc có cả 50 Sở Học Chánh đặt tại 48 tỉnh và
2 thị xã ( Đà Nẳng và Vũng Tàu). Đến 1974, Sở
Học Chánh lại chuyển thành Ty Văn Hóa Giáo Dục).
Năm 1973, thầy Phúc được thăng chức Chánh Sở Học Chánh
Bình Dương và giữ chức vụ nầy cho đến 1975. Chức hiệu trưởng
THĐ giao lại cho thầy Nguyễn văn Hộ.
Thầy Phúc và nhà văn Sơn Nam
Sau 1975, hoạt động của trường trung học THĐ bị gián đoạn hết mấy
năm. Thầy làm đủ thứ nghề như đan sọt, làm vỏ xe, cẩn trứng
tranh sơn mài để kiếm sống. Đến 1983 bắt đầu nhận dạy Anh Văn tại
trường Nguyễn Đình Chiểu, thị xã.
Đến khi trường THĐ được khôi phục hoạt động vào tháng
01 năm 1991, thầy được Sở Giáo Dục Sông Bé mời ra đảm
nhiệm chức vụ Hiệu Trưởng trường THĐ. Đầu niên khoá 1991-1992,
Thầy từ chức, lấy lý do sức khỏe. Sau, Thầy lại được mời làm
Hiệu Trưởng trường trung học dân lập Trí Nhân ( đường
quốc lộ 13 cũ, gần chợ Cây Dừa, phường Hiệp Thành) được thêm
vài năm rồi nghỉ hưu.
Thầy có dáng người dong dỏng cao, khuôn mặt nghiêm
nghị, có vẻ nhiều suy tư, nét mặt của những triết gia, nhưng
nụ cười thì chơn thật và hiền hậu. Thầy không có
cái uy lực của một tướng lãnh làm người ta khiếp sợ,
nhưng đủ khiến hocỉ sinh có lòng nễ trọng. Các đồng
sự nhắc đến Thầy, đều cảm phục Thầy là một vị Thầy có nhân
cách đáng kính.
Thầy là người có nhiều kỷ niệm vinh quang và cay
đắng sâu đậm với mái trường THĐ, có thể nói không
ai có nhiều duyên nợ gắn bó với mái trường này
như thầy. Thầy hiện sống cuộc đời của một ẩn sĩ trơ trọi một mình
trong khu vườn xanh mát và u tịch gần ngôi trường cũ.
Rất may không có tiếng trống trường để khua động tâm
tư của một tấm lòng đã trải qua quá nhiều yêu
thương và nỗi ngậm ngùi trong cõi người ta nhiều dâu
bể như thầy…
9. Nguyễn Văn Hộ (1973-1975):
Sau khi nhận nhiệm sở mới, điều băn khoăn của thầy Phúc là
chọn người kế nhiệm mình làm HT THD. Một số người thầy nhắm
đến thì vì lý do này khác mà đều
không thực hiện được. Vì vậy thầy đành phải kiêm
nhiệm luôn cả hai công việc, vừa cũ vừa mới. Được khoảng 2 tháng
sau thầy mới bổ nhiệm người kế vị mình, đó là thầy Nguyễn
Văn Hộ, giáo viên đang dạy tại trường Trinh Hoài Đức.
Thầy có dáng người thấp, mặt hơi vuông, miệng rộng,
tính tình hiền lành. Thầy sinh ngày 29-09-1943
tại Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay là thành phố
Hồ Chí Minh). Thầy dạy Sử Địa tại THÐ từ 15-09-1967 đến 27-10-1973
thì nhận chức Hiệu Trưởng đến 30-04-75
Thầy Hộ và Thầy Phúc
Thầy nhận chức vụ chưa bao lâu thì Phước Long thất thủ, báo
hiệu chiến cuộc sắp đến hồi gay cấn nhất. Tình hình càng
lúc càng sôi động, chiến tranh đã nổ ra ở khu
vực An Sơn, Thạnh Quý. Từ trường có thể nhìn thấy cảnh
máy bay ném bom ở xa, khói bốc đen ở chân trời,
phía những vườn trái cây xanh mát và bình
yên thưở nào. Có hôm, miểng bom bay lạc cả đến sân
trường. Thầy Cô nhiều khi đã cố nói hết sức lớn nhưng
phải cho lớp ngừng học vì không ai đủ sức át nỗi tiếng
bom.
Trong bối cảnh như thế, Thầy chưa thể làm gì được nhiều
cho trường, nhưng đáng nhớ là năm đó Thầy vẫn cố gắng
tổ chức một mùa lễ tất niên rất nhiều kỷ niệm. Khói
lửa điêu tàn còn ở nơi xa, thì dưới mái
trường hiền hoà này, thầy trò vẫn có đêm
lửa trại, có văn nghệ, có chè, có cháo
thật tươi vui và hồn nhiên, mặc cho những cuộc chia tay sắp
đến. Còn nhớ những khúc đồng ca vang vang ngày ấy: “
Gặp nhau đây, rồi chia tay. Ngày dài như đã vụt
qua trong phút giây”. Năm đó còn có cả
phong trào thi đua làm báo tường, với nhiều giải thưởng
giá trị. Tờ “Xuân Hồng” của lớp 9A9 lãnh giải nhất khối
Đệ Nhất Cấp đã được phần thưởng đến 4000 đồng (Lúc đó
gạo mới chỉ 150 đồng một ký ). Lớp 10C lãnh giải nhất khối
Đệ Nhị. Vân Kim Liên, bút hiệu Thục Vũ Kha Ly, học sinh
nữ lớp này, với bài “Mùa xuân trên đỉnh
bình yên” lãnh giải nhất về thơ của trường. Nhận xét
về thời kỳ ở trường THÐ,
Thầy có cảm nghĩ sau:
“Tôi đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp Giáo
Dục. Suốt 37 năm làm Giáo Dục, có vui, có buồn
lẫn lộn. Nhưng cái vui, vui về tinh thần, về tình nghĩa Thầy
Trò, về tình cảm đồng nghiệp và tình người, là
động lực, là sức mạnh giúp tôi vượt qua những lúc
buồn, những lúc chán nản. Năm 1963, sau khi đỗ Tú Tài
2, tôi trúng tuyển vào 2 trường: Quốc Gia Hành
Chánh và Đại Học Sư Phạm, sau khi học thử 1 tuần ở cả hai
trường, tôi quyết định chọn con đường dạy học. Đến bây giờ,
tôi vẫn bằng lòng với nghề dạy học, không có gì
phải hối tiếc, vì đối với tôi dạy học không chỉ là
một nghề, mà còn là cái nghiệp!
Thời gian ở trường THÐ chỉ là 1/5 thời gian dạy học của tôi,
nhưng THÐ đã ghi dấu ấn đọng lại trong tôi những kỷ niệm
không bao giờ phai. Trường còn nghèo, cơ sở vật chất
thiếu thốn, lại gần bom đạn; nhưng học trò đựơc tuyển chọn của cả tỉnh
ham học, thông minh lễ phép là rường cột của tương lai.
Tôi rất mong trường vẫn giữ tên trường THPT THÐ.
Thầy Cô THÐ gồm những Thầy Cô trẻ mới ra trường là
những người tốt nghiệp giỏi của các trường Đại Học Sư Phạm, và
các thầy cô lớn tuổi từng có nhiều kinh nghiệm giảng
dạy ở các nơi về để chờ về Sài Gòn. Sự kết hợp đồng bộ
giữa năng lực và kinh nghiệm! Thầy Cô muốn đem hết cái
Tâm, cái sức dạy dỗ các em nên người!”.
Sau 75, thầy Hộ giảng dạy tại nhiều trường như trường trung học cấp III
Dầu Tiếng, Trung học Sư Phạm Sông Bé, đến 1980 chuyển về Sài
Gòn dạy tại Trung học Sư Phạm thành phố. Năm 2004 Thầy nghỉ
hưu sau 37 năm trong nghề dạy học. Tuy vậy Thầy vẫn làm thêm
với chức danh trưởng Phòng Đào Tạo trường Trung cấp Tư Thục
Kinh tế-Kỹ Thuật Phương Nam, quận Tân Phú, HCM.
Hiện đang sinh sống tại địa chỉ 150/4, Lý Chính Thắng, phường
7, quận 3, tp. HCM, với gia đình: một bà mẹ già đã
90 tuổi, vợ và 4 con, 2 cháu nội ngoại.
Số điện thoại của thầy: 0909596330
email: lamkhanh1212@yahoo.com
Bấm vào đây để đọc phần
tiếp theo