Trường Xưa Trong Trí Nhớ
Hoàng Anh
Phần 2 :
TRƯỜNG THĐ, 20 NĂM
…
(tiếp theo)
Trong những năm dưới thời thầy Di việc tập luyện đi diễu hành
đựơc chú trọng. Đoàn học sinh THĐ đã từng tham dự
nhiều cuộc diễu hành trong những buổi lễ trong và
ngoài tỉnh và tạo đựơc ấn tượng tốt với quan khách
dự kháng. Việc ăn mặc tuy quy định cụ thể như thế, nhưng
nói chung thì khá giản dị, quần áo học sinh
tự mua sắm, những người nghèo vẫn có thể sử dụng
áo hay quần cũ mặc từ năm trứớc bị úa vàng hay
phải vá lại.
Nữ sinh THD, khoá I, trong bộ đồng phục
Khi đi học, mỗi người chỉ cần cầm theo một cái cặp bồi hay
túi xách nhỏ, đủ đựng một hai quyển tập. Cánh nam
sinh, nhiều anh cứ bỏ tập trong bụng, đi hai tay không thảnh thơi
như đi dạo mát. Thầy cô vào lớp, không
có sổ giáo án, có người còn chẳng
cần cầm sách giáo khoa, cứ thao thao giảng bài.
“Riêng thầy Nguyễn Vũ Hải dạy
Tóan thì chúng tôi rất bái
phục,vì Thầy gần như thuộc lòng hết mấy cuốn sách
Tóan viết bằng tiếng Pháp dày cộm mà thầy
vẫn mang theo hàng ngày để dạy học. Có khi thầy ra
đề tóan mà không cần nhìn vào
sách. Cách dạy của thầy rất phong phú và
hào hứng, nên hầu như học sinh nào cũng
thích.”
(Quê cũ trường xưa,
Nguyễn Văn Diệp)
Nếu chăm chỉ lắng nghe, về nhà học sinh chỉ cần bỏ qua
vài tiếng đồng hồ là có thể giải quyết xong
bài học, hay bài tập chuẩn bị cho buổi học hôm sau.
Rồi tha hồ mà đi chơi, đọc sách, đánh đàn,
đá banh...,hiếm có ai đi học thêm. Hồi đó,
người ta chưa thể tưởng tượng đựơc cảnh học thêm như thời nay.
Những anh chị học giỏi muốn tranh đua có tên trong bảng
danh dự thì việc siêng năng tự học là chính,
hoặc tham gia các lớp học hè ở trường Nguyễn Trãi,
Nghĩa Phương, Bồ Đề... Nhờ không phải quá vướng bận với
bài học trong lớp, rảnh nhiều, mà học sinh có thời
giờ để đocỉ sách, tập luyện thể thao, văn nghệ, cho nên
đã ai học giỏi, thì thường cũng có ít nhất
vài khả năng đặc biệt trong bộ môn nào đó.
Do vậy không lạ tại sao thời đó trường THD có
khá nhiều nhà thơ, nhà văn, tay đàn tay
trống tài danh “tuổi măng còn măng sữa ” như thế!
Môn văn có giờ thuyết trình, hình thức
này giúp cho học sinh tự nghiên cứu và luyện
làm việc theo nhóm. Giờ thuyết trình rất vui với
những pha chất vấn thừơng là hóc búa của lớp
và phần trả lời của tổ thuyết trình, có khi sắc
sảo, nhưng thường là lúng ta lúng túng, ngớ
nga ngớ ngẩn nên khuấy động đựơc những tràng cười vở lớp.
Tuy vậy, nhờ họat động này, học sinh trao dồi đựơc khả năng
hùng biện trứơc đám đông nên ăn nói
cũng dạn dĩ hơn, mỗi khi làm báo, họ mới dám mon
men đến “học đòi” phỏng vấn thầy cô, và viết đựơc
nhiều bài phỏng vấn khá duyên dáng
trên bích báo, như tờ Hoa nắng, tờ Xuân
Hồng...Trường cũng có phòng D9ạo, nơi các Thầy
Cô thay phiên nhau trực để tư vấn cho học sinh về nhiều mặt
trong đời sống, quan trọng nhất là việc định hướng nghề nghiệp
cho họ.
Bên cạnh việc dạy và học, các phong trào văn
nghệ, thể thao, du lịch, báo chí, hoạt động từ thiện
đúng là rất sôi nổi, phong phú. Hàng
năm trường đều có tổ chức nhiều cuộc thi treo giải thưởng
và đựơc sự tham gia rất hào hứng của học sinh. Một cựu
học sinh, tên Hoài Hương kể về những kỷ niệm này
như sau:
“Trường còn tổ chức cắm trại
tại chùa Hội Khánh, du ngoạn Vũng Tàu…những lần đi
này đã làm cho tôi có rất nhiều kỷ
niệm và biết nhiều hơn về quê hương đất nước. Trong trại
sinh hoạt học sinh do Ty Thanh Niên tổ chức (tại Phú Lợi),
Trịnh Hoài Đức cùng các trường bạn như Nông
Lâm súc và các đoàn thể thanh
niên như Nghĩa Sinh, Hướng Đạo…đã tranh đua rất hào
hứng”
“Về văn nghệ: Ngoài các
chương trình văn nghệ nội bộ như phát thưởng hay
có mời Khánh Ly và Trịnh Công Sơn về
hát ở trường năm 1967. Trịnh Hoài Đức đã tổ chức
đựơc hai buổi hát tại rạp Thanh Bình năm 1971 để
gây qũy hiệu đoàn, và một chương trình văn
nghệ trên Đài Truyền Hình Sài Gòn.
Chương trình này rất thành công, không
những giới thiệu Trịnh Hoài Đức mà còn làm
cho người xem biết nhiều hơn về quê hương Bình Dương
trái ngọt cây lành. Theo tôi được biết chỉ
có hai trường có chương trình văn nghệ trên
Đài Truyền Hình Sài Gòn lúc
đó là trường Mạc Đỉnh Chi và Trịnh Hoài Đức
của Bình Dương.
“Về xã hội: học sinh Trịnh
Hoài Đức cũng tham gia các sinh hoạt xã hội như
cứu trợ nạn lụt miền Trung, chúng tôi tổ chức văn nghệ hay
xổ số để gây quỷ cứu trợ. Năm 1972 lại tổ chức giúp đồng
bào chiến nạn từ Bình Long về tại trại tạm cư Phú
Văn, ở đây ngoài giúp đỡ thực phẩm, tiền bạc,
chúng tôi còn đến đào hầm vệ sinh và
làm các vịêc công ích khác”
(trích từ
www.trinhhoaiduc.netfirms.com)
Cuối năm thường là thời điểm của báo chí, giai
phẩm, thiệp tết, cắm trại, và văn nghệ. Về báo
chí, trường đã sớm xây dựng thành phong
trào ngay từ những khoá đầu tiên. Thế nên
thầy Nguyễn Đức Cẩm, dạy từ khoá một, bốn mươi năm sau, khi
đã định cư ở nước ngoài vẫn còn nhớ:
“Có nên kể những kỷ niệm
về các hoạt động báo chí của chúng ta hồi
đó chăng? Chắc là nên. Tôi đã
làm việc tại nhiều trường, sau này có trường lớn
gần trăm lớp, chưa có nơi nào mà bích
báo phong phú như ở trường Trịnh Hoài Đức nhỏ
xíu ngày ấy. Tôi nhớ lại một trường ở Gia Định,
nhà trường cấp giấy, mực vẽ, tiền bạc, thúc dục, khuyến
khích …Nhưng bích báo chỉ cố được hai trang, hai
tờ thì đúng hơn. Bích báo Trịnh Hoài
Đức qua mặt tất cả, hàng chục trang giấy croquis khổ lớn,
dán kín tường cầu thang, lối lên lầu. Mầu sắc đẹp,
sắp xếp cân đối, nghệ thuật như những bức tranh. Còn
bài vỡ thì, tương ứng với cấp lớp hồi đó có
thể gọi là rất hay được. Mà chúng ta làm
gì được cấp ngân khoản báo tường. Làm
gì có nâng đỡ … Nhưng chúng ta thích,
chúng ta yêu quốc văn, chúng ta biết sắp xếp
công việc. Và chúng ta đã làm được.
Có nên kể đến tờ
nọâi san của chúng ta chăng ? Chắc là nên,
các trường lớn nhỏ thường có nội san vào dịp Tết,
hay dịp cuối niên khóa. Trịnh Hoài Đức không
cần đợi dịp nào cả. Tờ nội san “ Bút Ngày Xanh” in
ronéo, dự tính ra định kỳ, hoàn toàn
không có một phương tiện nào. Không biết
còn ai giữ được một tập nào không nhỉ ? Còn
ai nhớ nội dung chăng ? Về phần tôi, cho đến nay tôi
có viết rải rác một số bài đăng báo
và có tật quên hết những gì mình viết
mà chỉ nhớ văn người. Bởi vậy, khi có người nhắc lại
bài “Dâu Bình Dương” Thì tôi mới nhớ
mình đã cho in một bài trong nội san “Bút
Ngày Xanh”. Nhưng tôi hoàn toàn quên
nội dung bài đó không rõ dài ngắn,
hay dở ra sao ? Hồi tưởng mãi thì hình như
tôi kết luận bằng mấy chữ “…vẻ dịu dàng và tha
thướt của Bình Dương” thì phải. Mô tả vẻ đẹp của
Bình Dương bằng mấy từ ngữ “ Dịu dàng và tha
thướt”, tôi không hề chỉ cố viết cho bóng bẩy, chải
chuốt.Tôi thật sự cảm nhận vẻ đẹp đó, qua cái
nhìn riêng của tôi,vào những năm cuối thập
niên 1950.”
(Thư viết 1995)
Phong trào bóng đá, bóng bàn,
bóng chuyền, vũ cầu của trường rất sôi động hào
hứng và gặt hái được nhiều thành tích cao
trong những lần tranh giải. Nhờ có sẵn sân banh làm
nơi tập luyện, đội tuyển bóng tròn của THĐ là đội
mạnh trong khối học sinh. Thế nhưng cứ lâu lâu lại
có vài đường banh “ điệu nghệ” của các cầu thủ
nhí bay thẳng vào cửa kính của phòng
thí nghiệm. Các thầy giám thị nhiều khi phải phạt
lên phạt xuống vất vã lắm mới dẹp yên đươcỉ
cái nạn này. Đội bóng bàn có lẽ
phát trỉên mạnh vào đầu thập niên 70, một
phần là nhờ vào sự tham gia của một vài thầy
có khả năng với bộ môn này như thầy Lưu Đức Trung,
Nguyễn Văn Hiệp, Từ Văn Nhung, thầy Lập…Thầy Trung thường dắt đội
bóng bàn THĐ thi đấu với nhiều trường ở thành phố.
Trong phòng bóng bàn của trường, hiện tượng nổi
bật lúc đó là các cầu thủ tí hon mới
học lớp tám, lớp chín như Phú Yên,
Phú Cường, Sa Công Danh, Nông Vĩnh Trị… các
tay vợt nhí này đánh rất cừ khôi, qua mặt
các anh chị lớn và cả các thầy nữa. Thành
tích sáng chói nhất có lẽ là
bóng chuyền. Đội tuyển dứơi sự dẫn dắt của thầy Đoàn Phế
(hiện ở Canada), thi đấu với nhiều nơi trong và ngoài
tỉnh và thường giành chiến thắng. Thành
tích đáng kể là đã từng đạt hạng nhất năm
1971 trong Đại hội thể thao tòan tỉnh, và huy chương bạc
tòan vùng III khi thi đấu tại Vũng Tàu. Các
tuyển thủ nòng cốt đã góp phần làm vang
danh bóng chuyền THD ngày ấy là Nhản, Lực, Nguyện,
Thạnh, Tuấn, Hậu. Hai dự bị là Tâm và Phước.
Đáng nói thêm là các tài năng
thể thao cừ khôi này thường lại học hành cũng rất
xuất sắc như Từ Minh Thạnh, Từ Minh Tâm sau đều lá
giáo sư đại học…
Chính nhờ các hoạt động ngoại khoá hay sinh hoạt
học đường này mà những giờ đến trường là những giờ
vui vẻ, hạnh phúc của thời hoa niên. Mái trường,
đúng nghĩa là mái ấm gia đình thứ hai của
học sinh THĐ.
Kể từ ngày thành lập đến năm 1975, trường đã mở
được cả thảy 20 khoá.Đến niên học 74-75, trường có
tổng cộng 60 lớp học, với 3000 học sinh., 120 giáo chức. Nếu so
sánh với 3 phòng học và 150 học sinh, 12
giáo viên của năm đầu tiên, ta sẽ thấy sự
phát triển vượt bậc của nhà trường. Trải qua chín
đời hiệu trưởng, các công trình của nhà
trường lần lượt được xây dựng thêm.
Trước phòng thí nghiệm, nhân ngày lễ
khánh thành tượng danh nhân Trịnh Hoài Đức,
năm 1972.
Trong ảnh có mặt toàn thể phái đoàn Bộ Văn
Hoá Giáo Dục và Thanh Niên do Thầy Nguyễn
Thanh Liêm là trưởng đoàn, các thân
hào nhân sĩ địa phương, cùng ban Giám Hiệu
nhà trường, các Thầy Cô.
Ngoài khối văn phòng và các phòng
lớp cơ bản, trường có dồ án xây dựng để phát
triển liên tục hàng năm như thành lập sân vận
động, phòng thí nghiệm với đầy đủ trang thiết bị cần
thiết, thư viện, sân bóng chuyền, phòng bóng
bàn, hội trường, sân khấu, công viên…Chỉ hơn
một thập niên sau thì các hạng mục này đều
hoàn thành đúng như dự kiến, biến nơi đây
thành một ngôi trường lý tưởng để đào tạo
học sinh về cả ba mặt văn thể mỹ trong tỉnh không nơi nào
sánh kịp.
Đầu năm học, học sinh phải đóng số tiền nhỏ có
tính tượng trưng gọi là tiền niên liễm. Từ
đó đến suốt năm, họ không còn phải đóng bất
cứ khỏang tiền nào nữa. Đã vậy, các học sinh
nhà nghèo và có thành tích
học tập tốt còn được lãnh học bổng hàng
tháng để trợ giúp các em trong việc học.
Từ ngày thành lập, trường đã sớm tạo được danh
tiếng và uy tín. Kỷ luật nhà trường rất
nghiêm, học sinh nào không thuộc bài hay bị
phạt thì bị hai ngày chủ nhật cấm túc phải đến
trường tự học, dưới sự giám sát của một giáo
viên. Tuy trong thời buổi chiến tranh loạn lạc và
xã hội đang trải qua nhiều biến động, nhưng học sinh nói
chung là lễ độ, ngoan ngoãn. Ở các lớp lớn,
tình cảm nam nữ cũng bắt đầu chớm nở nhưng vẫn hồn nhiên,
trong sáng. Thế nên dù các loại truyện
và phim về đời sống du đảng như “Điệu ru nước mắt”, “Loan mắt
nhung”…có xuất hiện trên thị trừơng, thì ở
đây chưa có trường hợp gây hấn nào
đáng kể. Chủ trương chung của ngành giáo dục
là chuyện chiến tranh nên gạt ra
khỏi học đường, học sinh yên tâm học hành,
không phải tung hô hay đả đảo ai. Do vậy cho dù cũng
có những rối ren không tránh khỏi trong giai đọan
đó, dù xuất thân từ những địa phương và
thành phần khác nhau, bạn bè vẫn thương yêu,
trìu mến nhau. Ai làm gì thì làm,
bạn vẫn là bạn. Thầy cô không quan tâm đến
thành phần hay gốc gác của học sinh, đối xử với mọi người
bình đẳng. Những học sinh nhà nghèo mà học
giỏi luôn là hình mẫu đựơc ca ngơị, quý
trọng. Ngược lại con quan chức, nhà giàu mà học
kém là điều đáng xấu hổ, dễ bị chọc quê.
Tình nghĩa thầy cô bạn bè nói chung đựơc coi
trọng hơn mọi điều khác. Mấy mươi năm sau, mỗi người mỗi cảnh
nhưng tình cảm chân thành, hồn nhiên của thời
áo trắng vẫn còn giữ đựơc, đó là điều hết
sức đáng quý.
Trong suốt hai mươi năm họat động, nhà trường đã
đào tạo rất nhiều nhân tài ưu tú cho điạ
phương và đất nước, số người thành danh từ ngôi
trường này trên nhiều lãnh vực đến nay khó
mà kể ra hết. Được thi đậu và học tại trường THD, do
đó là một niềm vinh dự đối với học sinh và mối
yên tâm lớn cho các bậc làm cha mẹ.
Dù đang ở nơi nào đó trên nước Việt Nam hay
đất khách quê ngừơi, thì mỗi khi nhớ lại trường
trung học THĐ, những ai đã từng trải qua năm tháng dưới
mái trường này chắc có lẽ đều nghe lòng
mình thóang rung động bao kỷ niệm buồn vui. Đó
là một khung trời của kỷ nịêm, của yêu thương, của
những hồn nhiên và vụng dại khó quên.
Còn nhớ một đoạn văn đọc thời còn cắp sách
đó :
“Trời tặng mùa hạ
những đoá phượng lớn. Mùa hạ tặng lại học trò, thế
nên hoa phượng là hoa của học trò, nở vào
mỗi mùa bãi trường, mùa thi. Phải chăng cậu
bé, cô bé hôm qua ta gặp trên đường,
khi vừa vạch qua một bên lớp lá phượng cũ, tình cờ
nhìn thấy bước chân của kỷ niệm, lần đầu theo mẹ đến
trường hay lần cúôi bùi ngùi rời xa lớp
học”( Phượng vĩ, Duyên Anh)
Lần đầu đến trường, lá ngoài đường không rụng
nhiều, và trên trời mây cũng không bàng
bạc, nhưng đó là lúc mà cánh đồng
lúa đang xanh mứơt rập rờn đến tận những vườn cây ở xa.
Lòng của các cô cậu học trò lớp Đệ Thất đầy
hãnh diện vì từ đây mình được là học
sinh trường Trịnh Hoài Đức. Ngôi trừơng mới đẹp làm
sao với những dãy phòng thẳng tấp, và khu lầu vươn
lên cao đầy kiêu hảnh, hiên ngang. Từ đây, từng
ngày trôi qua sẽ chất đầy trong ký ức của họ những
kỷ niệm ngọt ngào, những hình ảnh không nhạt phai
trong bụi phủ của thời gian. Đó là những lúc chui
rào ra cánh đồng quậy phá các mương củ sắn,
hay đào xới đất để tìm bắt dế. Đó là
lúc tan trường như bầy ong vở tổ chen nhau trên những
chiếc xe đò, xe lam hay lang thang trên con đường đầy
những cánh bướm trắng để xuống chợ Búng. Ngồi trong lớp
học hồi đó, lúc nào cũng được nghe tiếng ru
êm đềm của những cơn gió, lúc thoang thoảng,
lúc lồng lộng nhưng bao giờ cũng thơm ngát hương của đồng
nội. Nhớ nhất là những ngày cuối năm, khi nông
dân đốt rạ trên đồng, khói lam tỏa ngát trời
chiều, phủ mờ những cánh cò trắng nhịp nhàng thong
thả xa dần ở phía những ngọn tre…
Trường có nhiều cây điệp đỏ. Mùa hè, hoa đỏ
rực, ve kêu ran cả tai, hoà cùng tiếng ve từ những
khu vườn bên kia đường tạo thành khúc nhạc biệt ly
trầm buồn đến não nuột. Những ngày cuối tháng tư
năm 75, chiến tranh đã diễn ra ở vùng Thạnh Quý,
An Sơn. Trước trường, những chiếc xe GMC đổ quân, những người
lính trang bị đầy súng đạn tiến quân vào
phiá những khu vườn, nơi mà vào những giờ nghỉ học
bọn học trò hay kéo nhau vào đó để kiếm
trái cây hay chia phe bắn bì, rượt đuổi chí
choé qua những mương nứơc trong veo. Nhưng chiến tranh của học
trò thì khác với chiến tranh của người lớn nhiều.
Bấy giờ, đứng ở sân trường có thể thấy rõ cảnh
máy bay thả bom phiá cúôi vườn cây,
tiếng bom rung cả mặt đất làm lũ ve cũng bặt im vì khiếp
sợ. Còn vài hôm nữa thôi thì hết
tháng tư, chiến tranh đã đến gần quá rồi, một số
bạn đã xuống Sài Gòn, số khác về quê,
sân trường vắng vẻ, lác đác vài nhóm
học sinh tay cầm cặp bồi đi lang thang trong sân trường vắng lặng
như còn nắm nuối với mái trường không muốn rời xa.
Ai nấy hoang mang, lo lắng, buồn thiu, nhưng cuối cùng rồi cũng
phải chia tay, để lại sau lưng những cành điệp đỏ rực rở, rưng
rưng trên nền trời xanh lặng ngắt.
Lần cuối bùi ngùi rời xa lớp học, chưa biết khi
nào gặp lại, càng không biết rằng, cùng với
lịch sử của đất nước, trường THĐ cũng bắt đầu sang một trang
khác.
Giờ đây, rất may là trường vẫn còn đó, vẫn
mang tên cũ, nhưng trường Nam đựơc xây dựng lại
hoành tráng, hiện đại hơn trước nhiều. Trường Nữ vẫn giữ
nguyên nhưng cũng đã có kế hoạch xây mới,
chắc chẳng bao lâu nữa thôi. Chỉ có con đường dẫn
vào trường thì đã hoàn toàn
khác trước. Không còn cảnh nắng bụi mưa lầy,
nhà cửa hai bên xây dựng nhiều, phần lớn khang
trang. Đi trên con đường phẳng phiu và rộng thênh
thang ấy, có ai còn nhớ lại hình ảnh của thủa
nào đã mờ xa?
“Hay là còn, đó
là hình bóng xa mờ của những em bé
áo dài trắng, đầu đội nón lá, đi trên
các bờ ruộng quanh trừơng, đó là hình
bóng của những cánh diều vào mùa
gió, những cánh diều đã đựơc nói đến rất
nhiều trong tờ bích báo “Hoa Nắng”.
Bỗng một mùi phân chuồng
thoang thoảng đâu đây. Mỹ nhìn lại thì thấy
cái chuồng bò nơi góc ruộng bắp ngày xưa
vẫn còn. Cái chuồng bò này chỉ có
nàng và vài nữ sinh thi sĩ chú ý tới
mà thôi.
Mùi phân chuồng thơm chứ
không hôi đâu. Nó thơm hương đồng áng,
hương của một nông trại hẻo lánh nào, hương ấm của
một gia đình nông dân đủ ăn.”
(Bình Nguyên Lộc, Diễm Phượng)
Mừng cho các học sinh thời nay có thể ngồi học trong
những phòng lớp mát mẻ sang trọng, nhất là đựơc
sống trong cảnh thái bình, sung túc. Mai đây
rời mái trường, cuốn theo dòng đời dâu biển, rồi
mười năm, hai mươi năm sau, không biết các em có
còn giữ lại trong lòng mình những nhớ nhung, những
ân tình tha thiết với nơi mình đã từng ngồi
học, như chúng tôi, thế hệ của một thời đã qua hay
không?
Hàng năm, ngày 1-05 được chọn là dịp họp mặt
truyền thống của cựu học sinh THĐ. Vào các khoá
đầu, học sinh thường phân biệt đựơc thứ tự các
khoá. Càng về sau, hầu hết đều không biết
mình là khoá mấy mà chỉ nhớ năm vào
học thôi.Tuy số người trở về không đầy đủ, đó vẫn
là những giây phút rất cảm động và chứa chan
xúc cảm của bao thế hệ học sinh nơi đây. Thầy cô
và học trò giờ đều đã già, nhìn
tóc ai cũng thấy bạc màu. Chỉ có thể phân
biệt được giữa thầy cô và học trò nhờ tiếng xưng
hô đầy trìu mến, kính trọng hơn là nhờ
nhìn hình dáng bên ngoài. Dịp
này, là lúc mọi ngừơi tha hồ mà kể lại
chuyện của ngày xưa.
Tiếng cười vang lên rộn rã, nhưng đôi lúc
cũng có những giọt lệ chầm chậm lăn trên đôi
gò má nhăn nheo. Bao nhiêu hình bóng
của ngày xưa ngỡ đã quên đi, sao bỗng lại hiện về.
Mới đâu đây thôi, mà đã mấy mươi năm,
thời gian đi nhanh quá! Lời than cũ, nhưng sao nghe ai
nói đó mà vẫn thấy chạnh lòng.
Vâng, hồi ấy….
Bấm vào đây để đọc
phần tiếp theo