Trường Xưa Trong Trí Nhớ
Hoàng Anh
Phần 2:
TRƯỜNG THĐ, 20 NĂM
…
Cả miền Nam vào các thập niên 1930 và 1940
chỉ có 4 trường trung học, đó là các trường
Petrus Ký, trường Gia Long (Sài Gòn), trường
Collège Le Myres de Vilers (sau này là trung học
Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho), và trường Collège de
Cần Thơ (sau này là Phan Thanh Giản, Cần Thơ). Trong 4
trường này thì chỉ có trường Petrus Ký
là có đủ các lớp trung học Đệ Nhị Cấp để học sinh
học đến Tú tài II (tương tự lớp 12 ngày nay).
Đến năm 1954, ngoài một vài trường tư với quy mô
nhỏ ở thị xã, trường trung học công lập tại Thủ Dầu Một
vẫn chưa có. Việc xây dựng một ngôi trường như thế
nhằm giúp đở những học sinh nghèo hiếu học và cơ
sở để đào tạo các học sinh ưu tú của tỉnh trở
nên nhu cầu cần thiết và như một sự kiện tất yếu phải đến.
Quyển Địa phương chí 1975 tỉnh Bình Dương, trang 75, viết
: “Trường được xây cất từ năm 1954 và vào
niên khóa 1955-1956 trường có ba lớp với 150 học
sinh”
Đến đây, có lẽ chúng ta cũng cần nhớ lại bối cảnh
xã hội lúc đo,ù từ những tháng cuối năm
1954, khi bắt đầu quá trình thành lập trường
và 1955, khi trường hoàn thành.
Ngày 20 tháng 07 năm 1954, hiệp định ngừng bắn giữa Việt
Minh và Pháp đựơc ký kết tại Geneva, Thụy Sĩ, lấy
vĩ tuyến 17 làm giới tuyến, chia nước Việt Nam làm hai
miền. Miền Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, sớm
thành lập chính quyền để xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Miền Nam, sau cả trăm năm chịu sự cai trị của thực
dân Pháp và chính sách can thiệp của
Mỹ đang tiến hành, khiến tình hình chính
trị, xã hội diễn biến khá phức tạp.
Cuối năm 1954, Tư lệnh quân đội lúc đó là
Ngô Đình Diệm quyết định rút lại giấy phép
kinh doanh các sòng bạc và ổ mãi dâm
của phe Bình Xuyên. Đến ngày 15-02-1955, lại ra
lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung Đại Thế Giới.
Vào những ngày cuối tháng 04-55, quân đội
miền Nam tấn công Bình Xuyên. Ngày
03-05-1955, tướng Trình Minh Thế tử trận, ông là
một viên tướng chỉ huy lực lượng vũ trang Cao Đài
đã về cộng tác với chính quyền. Ngày
21-09ể1955, quân đội của Diệm lại mở chiến dịch Hòang Diệu
để tiểu trừ quân Bình Xuyên trong vùng rừng
Sát. Bảy Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên trốn qua
Miên rồi sau đó sang tị nạn bên Pháp. Từ
lúc được bổ nhiệm làm Thủ tướng kiêm Tư lệnh
quân đội, Diệm có nhiều nỗ lực để thâu tóm
quyền lực, thống nhất các giáo phái, các
lực lựơng đang tranh chấp quy về một mối.
Ngày 23-10-1955, gần sáu triệu cử tri miền Nam tham dự
buổi Trưng Cầu Dân Ý lựa chọn lãnh tụ. Kết quả,
ông Ngô Đình Diệm (1897-1963), đương kim Thủ tướng
tòan quyền, thay thế Quốc trưởng Bảo Đại, ông vua cuối
cùng của triều Nguyễn, làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng
Hòa.
Chính trong giai đọan rối ren, hỗn lọan này, trường trung
học Trịnh Hòai Đức lại có thể đựơc xây dựng
và khai gỉang khóa đầu tiên. Điểm sơ qua một
vài sự kiện chính trị nỗi bật lúc đó, tuy
không có quan hệ gì đến việc giáo dục, nhưng
để thấy bối cảnh ra đời của ngôi trường THĐ là cũng
khá đặc biệt. Rất tiếc đến nay không còn tư liệu để
có thể biết chính xác việc thành lập trường
đã tiến hành ra sao, và ai là người
đã có công chính trong việc này.
Ông Nguyễn Dương Đôn là Bộ trưởng Giáo
dục(1954-1957), như vậy có thể đã đóng vai
trò quan trọng thưở ban đầu trong sự nghiệp phát triển
trường lớp ở miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh một miền Nam hỗn
loạn, đó đây còn vang rền tiếng súng,
chính quyền trung ương chưa hoàn chỉnh lại phải lo đối
phó với quá nhiều vấn đề cấp bách thì
khó mà còn có thể để tâm đến việc mở
một ngôi trường ở tỉnh lẻ. Hơn nữa, theo như giáo sư
Nguyễn Thanh Liêm, ngừơi am hiểu về nền giáo dục miền Nam,
thì mãi đến thời của ông Trần Hữu Thế làm Bộ
Trưởng Giáo Dục, từ 1957-1960, thì chủ trương xây
dựng trường lớp của Trung ương mới thực sự đựơc triển khai rầm rộ đến
mọi nơi, từ ấp, xã đến huyện, tỉnh. Các trường trung học
lúc này mới lần lượt xuất hiện như Châu Văn Tiếp
(Phước Tuy), Ngô Quyền (Biên Hòa), Thủ Khoa
Nghiã (Châu Đốc), Thọai Ngọc Hầu (An Giang), Nguyễn Trung
Trực ( Kiên Giang), Hòang Diệu (Ba Xuyên)… Thời điểm
này, trường THĐ đã mở đến khóa ba, khóa
bốn. Việc tỉnh Thủ Dầu Một có được một trường trung học
khá sớm, chỉ sau thủ đô Sài Gòn và
hai thành phố lớn nhất miền Tây là Cần Thơ, Mỹ Tho,
có thể suy ra là do nỗ lực của chính người ở địa
phương đó.
Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ do một số giáo
viên của trường THĐ biên soạn, viết rằng: “Xuất phát
từ nguyện vọng của nhân dân trong tỉnh về sự học tập của
con em thầy Trương Văn Di lúc đó là hiệu trưởng
trường tiểu học cộng đồng Búng đã vận động và đề
nghị Bộ Giáo Dục cấp giấy phép cho thành lập
trường trung học công lập đầu tiên trong tỉnh nhà.”
(Quá trình hình thành và phát
triển của trường THD 1955-1994, tr.3)
Thầy Di vào lúc đó chỉ là Hiệu trưởng một
trường Tiểu học, vậy thì với vị trí của thầy, thầy
có trách nhiệm và năng lực để thực hiện nhiệm vụ
quan trọng này hay không? Những giới chức cao cấp
khác trong tỉnh đã làm gì, mà lại
phó thác trọng trách tiên phong ấy cho mỗi
một mình thầy Di?
Thầy Nguyễn Trung Thu, cựu Thanh tra giáo dục, cung cấp những
chi tiết đáng chú ý để lý giải cho trường
hợp này. Theo thầy thì ông Đốc Di và
ông Đốc An là hai người đã hợp tác chặt chẽ
với nhau trong quá trình vận động và xây
dựng trường lúc ban đầu.
Chúng tôi nghĩ rằng, Thầy An khi đó là
viên chức cao cấp ngành giáo dục tỉnh nhà,
việc xây dựng một ngôi trường trung học quan trọng chắc
không nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của Thầy.
Thầy Di, nguyên là Thanh tra giáo dục ở Nha được
điều về đây làm hiệu trưởng trường Cộng Đồng Dẫn Đạo
Búng, loại trường này, cả miền Nam chỉ ba tỉnh có,
như vậy Thầy cũng là người có khá nhiều uy
tín. Thầy có nhiều mối quan hệ với Bộ Giáo Dục.
Đặc biệt, một người học trò cũ của thầy thời ở trừơng trung học
College Le Myre De Vilers Mỹ Tho (Sau gọi là trường trung học
Nguyễn Đình Chiểu) tên là Trần Hữu Thế, giữ chức Bộ
trưởng Giáo dục từ 1957 đến 1960. Chính nhờ sự quen biết
với các viên chức cao cấp ở Bộ như thế, nên thầy Di
đã đóng vai trò chánh yếu trong việc
thành lập trường THĐ, theo nhận định của một số người là
có cơ sở hợp lý, đáng tin.
Ngoài ra, tại tỉnh nhà, một số người nữa cũng có
thể đã tham gia trong sự nghiệp này ở những phương diện
và mức độ khác nhau như ông Trần Văn Trai, luật sư,
một nhân sĩ hết sức tâm huyết và có nhiều
công trạng với nền giáo dục và văn hóa của
địa phương; ông Nguyễn Ngọc Lầu (1906-1990), chủ tịch xã
An Thạnh; ông Nguyễn Thành Tiết, quận trưởng Lái
Thiêu…
Theo lời kể của anh Nguyễn Ngọc Phát, học sinh khóa I
trường Trịnh Hòai Đức, con của ông Nguyễn Ngọc Lầu,
thì Oâng Trai, ông Di và các vị kể
trên đã từng đến nhà bàn tán
công việc với thân phụ anh để tìm đất xây dựng
trường. (Anh Phát từng là giáo viên, rồi
Thanh tra giáo dục khu 3 Học chánh, hiện định cư tại Mỹ.
Những lời trên đựơc ghi lại nhân một chuyến anh về thăm
quê hương vào tháng 07 năm 2008. Căn nhà ấy
nay vẫn còn nguyên như trước, toạ lạc tại số 47/02
xã An Thạnh, huyện Thuận An).
Sau cùng quí vị đó đã quyết định chọn khu
đất có diện tích gần 12.000 m2 nằm ven quốc lộ 13 cũ,
thuộc xã An Thạnh, cách thị xã Phú Cường
khỏang 5km. Nơi đây không khí trong lành,
tươi mát, lại yên tĩnh, rất thuận lợi cho việc dạy
và học. Khu đất này nằm sát cạnh trường Cộng Đồng
Dẫn Đạo, ở khu vực xưa gọi là Sân Cây, là cơ
sở kinh doanh của ông Phan Tấn Hòai, một người giàu
có vùng chợ Búng. Ông có người con
là Phan Văn Hùm, nhà trí thức yêu
nước nổi tiếng trong nước, nên có thời, tên
ông đã được dùng để đặt cho ngôi trường trung
học khác ở quận Lái Thiêu.
Việc khá nhiều ngôi trường quan trọng của tỉnh thời ấy như
trường trung học Trịnh Hòai Đức, trường Bá Nghệ, trường
Cộng Đồng Dẫn Đạo, trường Nông Lâm Súc đều được
xây dựng tại vùng đất này chắc đã được
nghiên cứu cẩn thận và có lý do chính
đáng của nó. Xét về mặt địa thế, khu vực
này nằm giữa hai vùng đất trù phú và
đông dân cư nhất tỉnh là Thị xã Phú
Cường và quận Lái Thiêu, lại cạnh trục giao
thông rất tiện lợi cho việc đi lại cho cả học sinh và
giáo viên, khi ấy hầu hết được điều từ Sài
Gòn về.
Sau khi thương thảo, đền bồi cho các chủ điền, họ liền lo
xây dựng cơ sở vật chất. Tiến độ thi công diễn ra như hoạch
định, chẳng bao lâu sau thì đã có thể
làm lễ khánh thành và khóa I
chính thức khai giảng (niêên khóa 1955-1956).
Lúc này chỉ mới xây được sáu phòng
học, ba ở tầng lầu và ba nằm ở tầng trệt. Ngôi lầu mặt day
về hướng Nam, tức phiá chợ Búng, hướng xây
nhà tốt nhất theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền của Á
đông (Lấy vợ đàn bà, cất nhà hướng Nam). Tuy
nhiên đây cũng là một trở ngại cho các
công trình xây dựng tiếp nối về sau vì
khó khăn trong thiết kêá tổng thể.
Quí vị tiền bối kể trên chắc cũng chính là
những ngừơi đã thảo luận và quyết định việc chọn
tên Trịnh Hoài Đức để đặt cho trường. THĐ là người
nổi tiếng uyên bác, có nhiều công trạng với
văn hoá phương Nam, xứng đáng là tấm gương
sáng cho học trò thời nay noi theo. Ông lại
là người quê ở huyện Bình Dương cũ, mà một
phần đất đã được tách ra (huyện Củ Chi) để thành
lập tỉnh Bình Dương. Vào lúc này, tỉnh vẫn
còn mang tên cũ từ thời Pháp là Thủ Dầu Một.
Đến tháng 8 năm 1957, khi tên tỉnh Bình Dương
chính thức được khai sinh, thì việc chọn tên vị
danh nhân này để đặt cho trường, có lẽ là
xứng đáng và mang nhiều ý nghĩa nhất.
Một buổi lễ trước sân trường
Ngày lễ khai giảng đựơc cử hành trọng thể, dĩ nhiên
có sự tham dự của rất nhiều quan chức và thân
hào nhân sĩ địa phương, nhất là những ngừơi
đã bỏ ra rất nhiều công sức để có đựơc ngày
vui trọng đại đó. Sự kiện này chắc hẵn thu hút
mạnh mẽ sự chú ý của nhân dân cả tỉnh, nhất
là các bậc phụ huynh nghèo đang lo lắng cho sự học
của con em mình. Cần nhắc lại rằng khoá I, niên học
1955-1956 chính thức vào học từ ngày mùng 5
tết, như vậy là vào đầu năm 1956, thế nên
các lớp này chỉ học có một học kỳ, mà cũng
chưa có giáo viên. Ty Tiểu học BD phải cử xuống một
số Thầy để chăm nom học sinh. Đến năm đệ lục mới bắt đầu có một
số Thầy Cô được cử về từ Sài Gòn, hầu hết là
sinh viên Đại học sắp ra trường. Thế nên vịêc học
trong năm đầu tiên chịu nhiều thiệt thòi hơn những
khoá về sau.
Được vài năm, có thêm một ngôi trường trung
học nữa ra đời: trường trung học THĐ nữ. Tiền thân của cơ sở
này là trường Bá Nghệ ở Búng, cách
trường Nam gần 2 cây số, là nơi dành cho học sinh
di cư từ miền Bắc sau 54. Được một thời gian, thì có
nhiều than phiền của cư dân quanh khu vực về tình
hình quậy phá vườn cây ăn trái của học sinh.
Thầy Di nhân cơ hội đó liền vận động để tiếp thu
luôn cơ sở này để thành lập trường THĐ nữ. Như vậy
từ 1958, trường THĐ bao gồm hai cơ sở, trường Nam và trừơng Nữ.
Thời điểm này các trường trung học lớn ở vài tỉnh
khác cũng bắt đầu tách đôi thành hai trường
nam và nữ như Nguyễn Đình Chiểu và Lê Ngọc
Hân ở Mỹ Tho, Phan Thanh Giản và Đòan Thị Điểm ở
Cần Thơ. Riêng tại Bình Dương, hai trường nam và nữ
cùng mang chung một tên, và là một trường
duy nhất, nhưng phải chịu cảnh “một kiểng hai quê”. Nói
là riêng nhưng lại cũng có lúc chung,
tình bạn bè do vậy tuy xa mà gần, tuy gần
mà cũng xa. Cảnh xa gần ấy đã lưu lại nhiều việc
đáng nhớ, đáng kể về sau.
Ngôi trường Nữ nằm ở vùng khá heo hút
(cách đường quốc lộ cả cây số ) nên tình
hình an ninh vào những năm về sau không đựơc tốt
lắm. Chiến sự thỉnh thỏang lại nổ ra trên mấy cánh đồng
xung quanh trường, việc học nhiều khi bị gián đọan, đứng
trên lầu có thể nhìn thấy cảnh đánh nhau
bên ngòai. Giáo viên e ngại không
dám đến trường, nhất là vào những lúc căng
thẳng như năm Mậu Thân. Những lý do đó khiến
có lúc trường phải tạm ngưng hoạt động, học sinh nữ dời
qua trường nam học tạm một thời gian tại phòng thí nghiệm
trong khi chờ đợi vãng hồi an ninh.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc có viết một truyện
ngắn nhan đề là Diễm Phượng, mô tả quang cảnh thôn
dã nhưng rất thơ mộng của ngôi trường này
vào những năm đó, có lẽ để riêng tặng
cô con gái của ông là Tô Mỹ Hạnh khi
cô dạy học tại đây. Trong lá thư cho một nữ sinh
tên Nga của cô, nay vẫn còn được giữ gìn cẩn
thận, cô viết : “Nếu một ngày nào đó,
tôi phải du học ở phương xa, xa gia đình, xa quê
hương, xa các em học sinh thương mến, thì ngày ấy
hình ảnh câu chuyện hôm nay sẽ là một
hình ảnh vĩ đại nhất trong vùng dĩ vãng
vàng son của tôi lucù tôi còn sống ở
lớp đệ Ngũ A2, trường Nữ Trịnh Hoài Đức này…”. Giờ
đây đang định cư ở nước ngoài, đọc lại những dòng
này, chắc lòng cô cũng khó ngăn nỗi
chút xao xuyến, bâng khuâng…
Cô Tô Mỹ Hạnh và học sinh Nguyễn Thị Nga
Để được học tại trường, học sinh tốt nghiệp tiểu học phải qua một kỳ
thi tuyển tổ chức mỗi năm một lần. Học sinh khoá đầu đến từ Củ
Chi, Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo, Lái
Thiêu, Thị Xã… phải thi tại trường Tiểu Học Nam Châu
Thành, Giám thị coi thi có thầy Trần Đình
Sĩ (sinh năm 1934, khi ấy đang dạy tại Dầu Tiếng) và một số vị
khác. Về sau do số lượng thí sinh tăng cao, phải mượn cơ
sở ở nhiều nơi mới đủ phòng.Việc thi cử tổ chức đơn giản nhưng
tuyệt đối nghiêm túc, hoàn toàn chưa
có chút tai tiếng nào. Tính trung
bình, thời đó cứ 100 học sinh học xong tiểu học
thì chỉ có độ gần 50 được vào trung học công
lập. Số đó lại chia làm hai, một phần vào trường
trung học An Mỹ, số còn lại, thường là ưu tú hơn,
mới được vào THĐ.
Năm đầu trung học gọi là đệ thất, rồi đệ lục…lên dần đến
đệ nhị, đệ nhất. Trung học chia làm 2 giai đọan, từ đệ thất đến
đệ tứ gọi là “Trung học đệ nhất cấp”, từ đệ tam đến đệ nhất gọi
là: “Trung học đệ nhị cấp”. Danh xưng này thóat
thai từ danh từ của Pháp “premier cycle” và “second
cycle”.
Năm học 1959-1960, trường xây thêm bốn phòng học
nữa, 2 trệt, 2 lầu nối dài thêm dãy phòng
cũ. Niên khoá này trường bắt đầu có lớp Đệ
Tam (lớp 10 hiện nay). Từ lớp này học sinh phải lựa chọn ban
học. Ban A là ban Vạn Vật, ban B là
Toán. Học sinh lựa chọn ban Toán ít hơn ban Vạn
Vật, nhất là nữ thì lại càng hiếm. Do vậy trường
có 2 lớp ban A mà chỉ 1 ban B. Học sinh nữ chọn ban B
phải qua học tại trường Nam.
“Cô nào muốn học
các lớp chuyên Tóan và Lý thì
phải qua trường Nam THĐ học chung các lớp ban B với các
nam sinh. Nếu tôi nhớ không lầm, thì từ lúc
bắt đầu lớp Đệ tam B, tôi đã thấy có Tứ Cô
Nương: Hường, Hải, Ngầm, và Muối từ bên trường Nữ qua học.
Mấy cô nầy gan thật! Hoa lạc giữa rừng gươm mà sau ba năm
dồi mài kinh sử, hoa vẫn tươi rói, còn gươm
thì cây sức cán, cây gãy gọng hết trơn
rồi, thật là nữ nhi chi chí!” (Quê cũ trường xưa,
Nguyễn Văn Diệp)
Khi đã thành lập lớp Đệ Tam rồi thì hàng
năm trường cũng tổ chức một kỳ thi dành cho học sinh các
trường tư, những ngừơi có năng lực tốt đủ sức vượt qua đợt khảo
thí sẽ được chuyển vào thành học sinh của trường.
Điều này giúp nhà trường quy tụ được nhiều học
sinh giỏi và khá.
Đến niên khóa 1969-1970, tên gọi các lớp
có sự thay đổi (căn cứ nghị định ngày 20-12-1969), lớp
đầu tiên ở bậc tiểu học là lớp một, lớp đầu của trung học
gọi là lớp sáu, cứ thế tuần tự đến lớp 12 là năm
cuốâi ở trung học. Đến năm 1972 thì kỳ thi Tú
tài I đựơc bãi bỏ, từ đây học sinh lớp 11 và
12 không phải buồn rầu than thở cho cảnh biệt ly kẻ lên lớp
người ở lại rất áo não như những khóa đàn
anh đàn chị.
Từ 1973-1974, học sinh không còn phải trải qua nhiều kỳ
thi chuyển cấp mà có thể học một lèo từ lớp một
đến lớp mười hai mới thi tốt nghiệp để lấy văn bằng Tú
tài Phổ thông. Kỳ thi năm đó cũng bắt đầu áp
dụng lối thi trắc nghiệm, làm hoang mang cho không
ít người vì sự mới mẻ của nó. Xin nhắc thêm,
thời trước, khi thi học sinh phải đối phó với hai phần vừa viết
vừa vấn đáp, nhưng đến niên khóa 1966-1967
thì bãi bỏ hẳn phần vấn đáp. Như vậy việc thi cử
ngày càng đựơc cải tiến nhẹ nhàng hơn để
tránh bớt áp lực cho học sinh. Bù lại, các
nam sinh phải lo học ráo riết hơn để mong thóat
tình trạng thi rớt sẽ bị vướng vào đời lính
tráng.
Để có thể điều hành quản lý hiệu quả cả hai cơ sở,
tổ chức của trường THĐ gồm có một Hiệu trưởng, một Giám
học, hai phụ tá Giám học quản lý vịêc dạy
và học; một Tổng giám thị, và hai phụ tá
chịu trách nhiệm quản lý nề nếp, kỷ luật của học sinh.
Trong các vị này thì ông Tổng giám
thị đựơc học sinh nhớ đến nhiều nhất, chắc vì khuôn mặt
các vị này lúc nào trong cũng “ngầu” rất dễ
sợ hay dấu ấn những lần bị phạt ê ẩm khó
quên.Ngoài ra có Hội Phụ Huynh Học Sinh gồm
các ông hội viên danh dự, hội viên ân
nghĩa, hội viên tán trợ, hội viên họat động…Hội cộng
tác với nhà trường để vận động xây dựng
phòng ốc, cấp học bổng và chăm sóc cho học sinh
đựơc chu đáo hơn. Trường còn có Ban Đại Diện Học
Sinh chuyên lo các phong trào văn thể mỹ.
Thành viên ban này do học sinh tự ứng cử và
do toàn thể học sinh bình bầu vào mỗi đầu
niên học, những lần vận động tranh cử cũng là những dịp
náo nhiệt và rất vui.
Người làm Giám học lâu năm nhất là Thầy Phạm
Ngọc Em, từ những năm đầu lúc trường vừa hoạt động đến 1975 mới
thôi (đã mãn phần). Hai Phụ tá Giám
học, một là Thầy Nguyễn Văn Phúc (năm 1969-1971), trường
nam; hai là cô Trần Thị Hương, trường Nữ. Với chức danh
là Phụ tá Giám học, nhưng cô Hương trong
thực tế là lãnh đạo trực tiếp của trường Nữ và
cô đã chứng minh năng lực quản lý đáng
khâm phục của Cô trong vai trò này. Từng giữ
chức Tổng Giám Thị có các Thầy: Tăng Văn Chương,
Ngô Thành Tươi, Nguyễn Văn Đô, Nguyễn Văn
Phúc, và người cuối cùng là Nguyễn Long
Vân. Giám thị có các Thầy: Phu (đã
mãn phần), Bảy, Nguyễn Văn Viện, Hồ Văn Hoàng, Tôn
Thất Đường, Lai Văn Chính, Nguyễn Văn Hiệp… Ngoài ra
còn có một giáo sư đảm trách Chương
trình Phát Triển Sinh Hoạt học đường là thầy
Nguyễn Trọng Nhượng (đã mãn phần).
Học sinh phải mặc đồng phục, nam sinh áo trắng “bỏ vô
thùng”, quần tây màu xanh dương; nữ sinh áo
dài trắng, quần trắng và tất cả đều phải đeo phù
hiệu. Những ngày lễ đi diễu hành nam sinh mặc áo
trắng, quần tây trắng, dây nịt trắng, giày trắng,
đầu đội bê rê xanh có gắn huy hiệu. Nữ sinh dịp
này mặc áo dài màu xanh nước biển, nhưng
những năm về sau thì mặc áo dài trắng như thường
ngày.Những năm đầu hầu hết các cô đều đội
nón lá, mang guốc. Sau, nón và dép
có đa dạng hơn, tuy nhiên những chiếc nón lá
vẫn là hình ảnh tiêu biểu nhất, nên thơ nhất.
Bấm vào đây để đọc
phần tiếp theo