Ẩm Thực
Bình Dương
Trái Sầu Riêng
LÁI THIÊU
NGUYỄN HIẾU HỌC
Nói đến Thủ Dầu Một xưa cũng như Bình Dương hiện nay,
không
thể không nhớ đến vườn trái cây nổi tiếng Lái
Thiêu.
Và khi nhắc đến các loại trái cây ngon của
miền
Đông Nam Bộ, không ai là không biết đến
trái
Măng cụt, trái Sầu riêng ở miệt vườn Bình Dương.
Chính vườn trái cây bạt ngàn trên
nghìn
hecta (1) và các làng nghề truyền thống gốm sứ,
sơn
mài điêu khắc ở đây đã làm nên
nét
đặc trưng và vẽ đẹp riêng cho vùng đất Thủ Dầu Một
–
Bình Dương.
Nếu trái măng cụt là đặc sản có thể nói
là
“ quán quân” của Thủ Dầu Một xưa ( có lẽ đến nay
cũng
ít nơi sánh kịp) thì hương vị chất lượng
trái
sầu riêng Lái Thiêu vẫn luôn được thực
khách
gần xa xếp vào hàng đầu ở Nam bộ.
Thời trước, các chàng trai Gia Định phong nhã
và
hào sảng, có lẽ không chỉ vì vẻ đẹp xinh
tươi,
thuần hậu của các cô gái miệt vườn Lái
Thiêu
mà còn vì hương vị quyến rũ của múi sầu
riêng
tuyệt vời của đất Thủ. Cho nên họ đã cất công
chèo
thuyền vượt qua hàng chục ngàn cây số
sông
rạch đến tận nơi đây để được cùng lúc thưởng thức
trái
ngon và tâm tình với người đẹp :
“ Ghe anh nhỏ mũi tráng lườn
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em
Cùng em ăn trái sầu riêng
Ăn rồi cảm thấy một niềm vui chung”
(Ca dao xưa)
Vào thời đó, hẳn là cả miền Đông Nam Kỳ, chỉ
đất
Thủ Dầu Một mới có cây sầu riêng. Ngày nay
đã
có nhiều nơi nhân giống trồng cây sầu riêng,
có
nơi trồng với diện tích lớn, đạt được sản lượng cao. Nhưng về
chất
lượng, khẩu vị nhiều người vẫn cho rằng “ở đâu cũng
không
ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu” (2)
Phải chăng đó chỉ là sự cảm nhận với ít nhiều ưu
ái
còn đọng lại từ các thế hệ du khách, thực
khách
đã một thời say đắm, gắn bó với hương vị trái sầu
riêng
ở miệt vườn xứ này ?
Nhưng ở mặt khác, cũng có một số cơ sở khoa học
nói
rõ về ưu thế thổ nhưỡng của vùng đất nơi này
có
thể xem là một trong những quê hương đầu tiên của
cây
sầu riêng tại Việt Nam. Đây là vùng đất bưng,
đất
phù xa mềm có độ lưu huỳnh cao, thích hợp cho sự
phát
triển thân cây và tạo nên mùi vị đặc
biệt
của trái sầu riêng trên vùng đất Lái
Thiêu
này.
Cây sầu riêng có tên khoa học là DURIS
ZIBETHIUS/
MURRAY (tiếng Ý Zibetto có nghĩa là mùi,
lấy
từ con cầy hương, còn Duris là thổ ngữ có nghĩa
là
gai nhọn). Người pháp gọi là DURIAN hoặc DURION, tiếng
Cam-pu-chia
là Thu-rên hay Tu-rên. Tại quê hương đầu
tiên
Malaysia cây sầu riêng có tên
làDJOERIAN.
Còn tiếng Việt chưa tháy ai giải thích, có
lẽ
tên Sầu Riêng là âm Việt đọc trại từ chữ
DIOERIAN
hoặc Thu-rên mà thành chăng ? Được biết trong
“Truyện
kể dân gian Nam bộ” (3) có nhắc đến sự tích
trái
sầu riêng và cho rằng “sầu riêng” là
tên
người Việt đặt cho trái “ Thu – rên” một loại trái
cây
đậm đà hương vị gắn liền với câu chuyện tình đau
thương
và chung thủy của một đôi vợ chồng ở miệt vườn sông
nước
Cửu Long vào thời xa xưa…
Sầu riêng là loại cây to thuộc họ bông (
Malvacae)
cao đến vài chục mét, lá mọc sole hình
trứng
thuôn dài. Hoa mọc thành xim ở những đốt trên
cành.
Quả to, vỏ cứng có nhiều gai nhọn. Trái có nhiều
ngăn,
mỗi ngăn có từ hai đến năm múi. Múi có lớp
cơm
màu vàng sữa giống như lớp bơ dày có đủ
mùi
vị bọc giữa một hạt màu nâu. Khi chín, mùi
sầu
riêng rất nồng, gắt tỏa hương thơm ngát, vị sầu
riêng
rất đặc biệt, gây nên bao sự đánh giá khen
chê,
mê thích và xa lánh. Tiêu biểu nhất
là
chuyện khi mới biết đến mùi vị trái sầu riêng (
vào
khoảng thế kỹ XVII) dân Hà Lan đã đặt cho
trái
sầu riêng biệt danh “ thứ ghê tởm” ( stancker). Nhiều du
khách
phương Tây đã nói về mùi sầu riêng: “
giống
hệt mùi khó ưa của củ hành” hoặc là “một
hỗn
hợp mùi pho-mat cũ và hành củ, bốc hơi nhựa
thông
…”. Trái lại, nhà tự nhiên học Wallace ( thế kỷ
XIX)
cho biết tuy mùi vị sầu riêng rất đặc biệt khó tả
nhưng
mới gặp lần đầu ông đã mê ngay : “ Tôi thấy
một
trái chín rơi trên mặt đất và ăn thử. Từ
đó
tôi rất khoái ăn sầu riêng” ông viết tiếp : “
Càng
ăn nhiều, bạn càng khó dứt ra khỏi hương vị sầu
riêng”
(4).
Đối với người Việt Nam cũng thế, trái sầu riêng đã
được
lắm người yêu, kẻ ghét, người khen, kẻ chê.
Mùi
vị trái sầu riêng quả là một thách thức
quyết
liệt cho khứu giác, vị giác của nhiều thực khách,
nhất
là đối với người miền Trung, miền Bắc. Nhưng nói chung
cho
đến nay, trái sầu riêng dường như đã chinh phục
được
khẩu vị của khá nhiều người. Bằng chứng sản lượng sầu
riêng
hàng năm không nhỏ nhưng cũng chưa đáp ứng nhu cầu
tiêu
thụ trong nước. Ngay những năm được mùa, giá sầu
riêng
vẫn luôn ở mức cao so với các loại trái cây
khác.
Trên thị trường và trong ẩm thực, sầu riêng
không
chỉ là loại trái cây cao cấp rất ưu chuộng
mà
ưu thế của nó còn hiện diện trong một số thực phẩm chế
biến
thông dụng. Chẳng hạn như: kem, mứt sầu riêng, xôi
chè
bánh kẹo có hương vị sầu riêng. Có người
còn
vận dụng mùi vị độc đáo của sầu riêng qua việc pha
chế
thành loại “ bia – sầu riêng”, “ rượu – sầu riêng”,
“
cà phê – sầu riêng”. Nhà văn Nguyễn
Tuân,
kỹ tính và sành điệu về ẩm thực, cũng đã tỏ
ra
tâm đắc và khoái khẩu về thức uống tổng hợp,
kì
diệu: Rượu Tây trộn lẫn sầu riêng ta.
Người Việt cũng như phần đông người Á Đông thường ưa
thích
món ăn vừa ngon lại vừa bổ. Trái sầu riêng
đáp
ứng được các yêu cầu đó, hơn thế nữa nó
còn
chữa được một số bệnh … Nhà dược học Đỗ Tất Lợi trong
sách:
“ Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” đã
nói
về cây và trái sầu riêng như sau: “Sầu
riêng
là một quả ngon lại là một quả có tác dụng
kích
thích sinh dục. Rể và lá còn được
dùng
làm chữa sốt, bệnh về gan, vàng da”. Theo sự phân
tích
của ông “ Trong 100 gam cơm sầu riêng có 37,14%
nước;
6,38% chất đạm; 2,7% chất béo; 16,2% chất đường và nhiều
chất
khác…” “ là những chất có ích cho cơ thể
con
người ( sđđ, 1981, trang 919 ). Ngoài ra trong một bảng
phân
tích khác cho biết cứ 100 gam thịt sầu riêng cung
cấp
khoãng 156 Kcal, 49 mg cali, 2,0 mg sắt, 8,0 mg vitamin A; 461 U
bêta
coroten; 25_62 mg vitamin C và một hàm lượng đáng
kể
Vtamin C. Đặc biệt còn có 8 loại acit amin; trong
đó
có méthionin và lysin. Sầu riêng được liệt
vào
loại trái cây ngon bổ và đắt giá nhất.
Có một câu hỏi có lẽ ai cũng muốn biết: Cây
sầu
riêng đã du nhập vào nước ta, cụ thể là
vào
đất Thủ Dầu Một bao giờ? Và có phải vùng đất
Lái
Thiêu là nơi đầu tiên tiếp nhận giống cây
này
?
Các tư liệu về thảo mộc và cây ăn quả đều cho rằng
cây
sầu riêng vốn là một loại cây hoang mọc ở rừng
Malaysia.
Thấy trái ăn khá ngon, người ta mang về trồng nhiều ở
Malaysia,
Indonesia, Thái Lan, Campuchia và cả miền Nam Việt Nam.
Khi
người Pháp đặt chân đến Nam Kỳ, các linh mục
Thiên
chúa giáo thường mang các giống cây
quí
vùng nhiệt đới đến trồng ở các nơi mà họ muốn
truyền
đạo để gây cảm tình với người bản xứ. Vào năm 1890
một
trong số cố đạo người Pháp tên Cermit ( ? ) đã đem
hạt
giống sầu riêng từ Indonesia đến trồng ở vùng đất
Lái
Thiêu ( 5 ). Trước đây ít lâu người ta vẫn
còn
trông thấy mấy cây sầu riêng cổ thụ trên 100
tuổi
tồn tại ở xóm đạo Tân Qui. Đến nay người ta còn
nhắc
đến cây sầu riêng đại thụ của ông Trùm Tư nổi
tiếng
khắp vùng Lái Thiêu. Năm trúng mùa
cây
cho trên 500 trái. Khi bị bão trốc gốc, thân
cây
có thể xẻ đến mấy bộ ván.
Cây sầu riêng từ khi trồng đến khi có trái
phải
mất 7 đến 8 năm chăm sóc. Vì thế đối với chủ vườn việc
chọn
giống phải hết sức cẩn thận và sau đó còn phải tốn
nhiều
công sức mới có được cây sầu riêng trưởng
thành
có thể cho trái..
Tùy theo loại đất tốt xấu và công chăm sóc,
cây
sầu riêng có thể cho trái vụ đầu ( trái
chiến
) khoảng từ năm thứ 6 đến năm thứ 8 trung biønh mỗi cây
có
khoãng từ 60 đến 100 trái. Từ lúc cây trổ
bông
đến khi đậu trái từ 20 đến 25 ngày và sau ba
tháng
thì trái chín.
Mùa sầu riêng bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 9
dương
lịch. Trái sầu riêng chín cây rụng xuống gốc
ngon
hơn trái được cắt cuốn đem dấu chín. Để tránh cho
trái
chín rụng khỏi bị vỡ và cũng tránh nguy hiểm cho
người,
chủ vườn thường giăng lưới hoặc bỏ rơm rác mềm dưới gốc
cây.
Người ta thường chọn trái bằng cách quan sát vỏ
và
gai bên ngoài trái sầu riêng. Còn thử
độ
chín bằng cách xem màu vỏ, và nghe tiếng
dội
khi gõ nhẹ vật cứng vào gai trái sầu riêng.
Nhưng
chắc chắn hơn, để có được trái sầu riêng chin, ngon
phải
có sự đảm bảo chất lượng từ phía người bán, gọi
là
mua “ sầu riêng bao”, tuy giá có đắt hơn ít
nhiều
nhưng không bị lầm loại “ sầu riêng trôi” (
không
đảm bảo chất lượng ).
Nhà văn hóa Trung Hoa, Lâm Ngữ Đường từng
nói
về mối liên hệ giữa các món ăn vào thời kỳ
ấu
thơ trong bước đầu hình thành tình cảm quê
hương
đất nước như sau: “ Tình yêu đất nước có sự thương
nhớ,
thèm thuồng món ăn mà cha mẹ đã cho ta ăn
lúc
ta còn nhỏ tuổi” ( 6 ).
Nếu cùng chia sẻ cảm nhận trên đây của nhà
văn
hóa họ Lâm, chúng ta có thể nói rằng:
với
phần đông dân Nam bộ, đặc biệt với người dân miệt
vườn
Thủ Dầu Một – Bình Dương, cái mùi vị đặc trưng của
trái
sầu riêng như đã hòa quyện trộn lẫn vào
hương
vị quê hương thân thuộc vẫn luôn bàng
bạc
trong tâm tư của mỗi người.
Chẳng thế, một nhà thơ của Tân Uyên – Thủ Dầu Một,
cách
đây hơn nửa thế kỷ, đã từng nhắc đến hai thứ biểu trưng
mang
đậm âm sắc, phong vị chung cho miền quê Nam Bộ qua mấy
câu
thơ mà nay vẫn còn đủ sức lay động, khiến lòng ta
xao
xuyến mang mác một chút tình quê – hồn
quê:
“ Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen lẫn từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng”
( Trích từ bài thơ “ Nhớ Bắc”, 1941 – 1946, của
Hùynh
Văn Nghệ)(6)
Quả như một nhà nghiên cứu văn hóa, đã đưa
ra
nhận xét: “ Món ăn là một nội dung quan trọng
góp
phần tạo nên phong vị dân tộc, phong vị quê hương
và
có tác dụng không nhỏ vào tâm tư
tình
cảm của mổi con người…”(7)
Và ở đây trái SẦU RIÊNG là một
trong
số không nhiều các thức ăn đặc sản tuyệt diệu có
vai
trò như thế đối với người Bình Dương, đối với văn
hóa
ẩm thực của đất Bình Dương xưa và nay.
Hiện Lái Thiêu có 1466 ha vườn trái
cây
( TK 2003 )
Phan Thứ Lang “ Lái Thiêu với trái sầu
riêng”,
TC xưa nay
Xem Nguyễn Văn Hiến “ Truyện kể dân gian Nam Bộ”, 1987, trang 176
Dẫn lại TL của Lê Đào “ Sầu riêng người yêu,
kẻ
ghét” viết theo E.O
Magazin, 1995 ( T.C TGM 143 – 7/1995 trang 34 – 35 )
Theo Phan Thứ Lang:“ Lái Thiêu với trái sầu
riêng“
TC xưa và nay
Lâm Ngữ Đường
Nhà thơ Hùynh Văn Nghệ, 1998, trang 446
Đinh Gia Khánh :“ Văn hóa ẩm thực VN ...“, 2000 -
trang
9
TRÁI MĂNG CỤT
LÁI THIÊU
NGUYỄN HIẾU HỌC
Với hương vị độc đáo, trái sầu riêng có thể
xem
là biểu trưng cho trái cây Nam bộ, thì
trái
măng cụt, một đặc sản của miệt vườn Lái Thiêu xứng
đáng
tiêu biểu cho xứ sở của “ cây lành, trái
ngọt”
Thủ Dầu Một, Bình Dương.
Mùi vị ngon ngọt đặc sắc của trái măng cụt đã
khiến
cho SALAN – viên tướng Pháp, người rất sành
món
ăn phương Đông hết lời tán thưởng : “ Trái măng cụt
nổi
tiếng ngon ở phần cơm màu trắng bên trong với những người
“
sành điệu” (sành ăn) đó là loại trái
cây
tuyệt diệu nhất ở Viễn Đông” (1). Được biết tướng Salan đến Việt
Nam
từ 1924, rời khỏi nơi đây vào tháng 3/1953
và
rất sành các món ăn ở Đông Dương.
Cây măng cụt là loại cây lâu năm ở miền nhiệt
đới,
thuộc họ bứa (Guttiferae) có nguồn gốc từ Malaixia và
Indonexia.
Theo Từ diển bách khoa Việt Nam cây măng cụt có 50
chi
gồm hơn 300 loài phân bố ở vùng nhiệt đới ẩm. Hiện
Việt
Nam có 5 chi, hơn 40 loài, hầu hết được trồng ở
phía
nam, đặc biệt trồng thành vùng chuyên canh như ở
Lái
Thiêu, Bình Dương.
Trên đất Lái Thiêu, măng cụt là loại
cây
to, thân mọc cao, trung bình khoảng 5 – 6 mét,
tán
rộng, lá dày cứng có hai màu, hình
thuôn,
đầu nhọn. Cây có hoa đực và hoa lưỡng tính,
cánh
trắng, nhiều nhị trông khá đẹp. Trái măng cụt
tròn,
cuống to, có 4 lá đài xanh úp lên
trái,
phía dưới nổi hình bánh xe răng, mỗi răng ứng với
một
múi trong ruột. Ruột có từ 4 – 7 múi, cơm trắng
thơm
ngọt có lẫn một chút vị chua, trong múi có
hột.
Vỏ trái măng cụt cứng, xốp, có màu đỏ rượu vang,
chứa
nhiều mủ. Vỏ cây và vỏ trái đều có chất
tanin
thường được dùng làm thuốc trị bệnh tả lỵ, tiêu
chảy.
Tên măng cụt có lẽ âm Việt đọc từ các chữ
mangoustan
(trái măng cụt) và mangoustanier (cây măng cụt),
tên
khoa học gốc tiếng Latinh Garcinia Mangostana. Người Trung Hoa
gọi
măng cụt là trái Sơn trúc tử (1) hay Mã cật
(
TĐVN của Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trụ, 1970 trang 893).
Theo nhiều tư liệu, sau khi giống măng cụt được trồng thử nghiệm
trên
đất Lái Thiêu Thủ Dầu Một, kết quả thật bất ngờ :
cây
phát triển nhanh, chóng ra trái, sản lượng
khá
cao, mùi vị lại thơm ngon đặc biệt hơn những nơi khác.
Nông
dân địa phương bắt đầu trồng nhiều cây măng cụt, biến
vùng
đất này thành vùng chuyên canh loại
cây
nổi tiếng trong cả nước. Có người còn quả quyết,
đây
là vùng đất trồng măng cụt có diện tích lớn
nhất
Đông Nam Á (2). Hiện chúng ta chưa có đủ dữ
kiện,
số liệu thống kê để có thể khẳng định so sánh
trên
đây là chính xác. Tuy nhiên, có
thể
nói rằng vườn măng cụt Lái Thiêu là
vùng
chuyên canh hàng đầu và sơm nhất ở Việt Nam. Đặc
biệt
về chất lượng trái măng cụt ở đây ít có nơi
nào
sánh kịp. Có lẽ lời đánh giá của tướng
Salan
từ nửa thế kỷ trước về trái măng cụt đến nay vẫn còn
nguyên
giá trị rằng : “ Măng cụt là loại trái cây
tuyệt
diệu nhất miền Viễn Đông” ( nguyên văn : le meilleur fruit
de
l’extreme Oriênt pour les connaisseurs).
Hầu hết tư liệu đều khẳng định trái măng cụt có nguồn gốc
ở
Malaixia và Indonexia đã du nhập vào đất
Lái
Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một từ khá sớm.
Tuy thế, chưa có tư liệu nào khẳng định rõ
ràng
cụ thể ai là người đã mang giống cây này
và
từ lúc nào vào trồng đầu tiên ở đất
Lái
Thiêu, Thủ Dầu Một.
Trong sách “ Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành
chim
đậu” (1999), một tác giả đã cho biết “ theo tư liệu cũ,
từ
đầu thế kỷ XIX, một nhóm nhà nông học đã đến
đất
này trồng thử nghiệm một số cây quí vùng
nhiệt
đới ( …) đặc biệt là cây măng cụt có thêm
mùi
vị khác lạ. Từ đó măng cụt được nhân giống
và
nông dân tại địa phương lập vườn chuyên canh loại
cây
này. Hiện nay ở đây được coi là vùng
có
diện tích trồng cây măng cụt lớn nhất Đông Nam
Á.”
(trang 298 sđd)
Tiếc rằng tác giả bài viết có nói “ theo tư
liệu
cũ” nhưng không nói rõ là tư liệu nào
và
cũng chưa giúp cho chúng ta biết thêm điều cần muốn
biết.
Chẳng hạn giống măng cụt được trồng ở TDM từ lúc nào
và
ai là nguời mang giống cây đến trước tiên.
Được biết năm 1861 quân Pháp đánh chiếm Thủ Dầu
Một,
đến 1884 triều đình Huế buộc phải ký hòa ước chấp
nhận
sự cai trị và bảo hộ của người Pháp. Và đến năm
1897
trung tâm thí nghiệm canh nông Bến Cát mới
được
thành lập. Như vậy, nếu có một nhóm nhà
nông
học Pháp đến trồng thử nghiệm cây măng cụt tại Thủ Dầu Một
phải
sau năm 1897 hoặc sớm hơn cũng phải sau năm 1884.
Nhưng chúng ta được biết trước đó trên nửa thế kỷ,
tên
cây măng cụt đã có trong thư tịch Việt Nam. Chẳng
hạn
như sách “ Đại Nam Nhất Thống Chí” được soạn trong thời
gian
( 1864-1875), trong mục “ thổ sản” của Biên Hòa ( Thủ Dầu
Một
lúc đó thuộc Biên Hòa và mang
tên
Bình An) đã có nói về trái “Thổ sản”
măng
cụt mà sách gọi là trái “ THỔ LÝ”
(bản
dịch của Nguyễn Tạo, XB 1970, trang 53). Trước đó khoảng ba bốn
chục
năm vua Minh Mệnh ( 1829-1840) đã từng gọi trái măng cụt
là
trái “ Giáng châu tử” ( từ điển Việt Nam, của
Lê
Văn Đức, 1970, trang 893).
Theo đó giống măng cụt đã được trồng ở nước ta ( tại
Lái
Thiêu Thủ Dầu Một) trước khi quân Pháp đánh
chiếm
Thủ Dầu Một khoảng bốn năm chục năm.
Hầu hết các tư liệu đều cho rằng cây măng cụt là
một
trong số cây quí nhiệt đới được các nhà
truyền
đạo phương Tây mang đến trồng ở Việt Nam. Lúc bấy giờ,
Lái
Thiêu của Thủ Dầu Một là vùng đất có nhiều
thuận
lợi cho việc lưu trú, truyền đạo và cả mặt thổ nhưỡng cho
việc
trồng thử nghiệm cây ăn trái của các giáo sĩ
người
Pháp.
Chẳng hạn, học giảVương Hồng Sến trong “ Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam”
(1993,
trang 463) đã nói về trái măng cụt như sau : “
măng
cụt là một loại trái cây xứ Thủ Dầu Một, xứ
Lái
Thiêu, do các cha đạo Gia tô đem giống về, có
thuyết
nói là từ Bá Đa Lộc hoặc linh mục Taberd”.
Nhà văn Sơn Nam, trong cuốn địa chí Sông Bé
cũng
đã nói về cây măng cụt ở vùng đất Lái
Thiêu
: “ Theo Melleret, cây măng cụt đầu tiên từ Mã Lai
đưa
đến Nam bộ trồng ở Lái Thiêu và ở nhà thờ họ
đạo
Lái Thiêu”. Có lẽ chính các
nhà
truyền đạo đã mang giống măng cụt đến Lái Thiêu rất
sớm
và trồng ở nhà thờ họ đạo Lái Thiêu ( theo
Sơn
Nam lúc đầu nhà thờ này được Bá Đa Lộc
xây
dựng tạm ở chợ Cây Me – Lái Thiêu vào khoảng
1771)
và trong đó tên các cha đạo Taberd,
Bá
Đa Lộc được nhắc đến nhiều nhất.
Với ưu thế đặc điểm về thổ nhưỡng và là nơi đầu
tiên
được tiếp nhận giống trái cây này vào khoảng
đầu
thế kỷ thứ 19, vùng đất ven sông Sài Gòn,
Lái
Thiêu đã sớm trở thành “ thánh địa” của
giống
trái cây đặc sản măng cụt. Từ lâu cây măng cụt
được
trồng đại trà trên diện tích lớn (2) cùng
với
các loại trái cây nhiệt đới quí hiếm
khác
tạo nên khung cảnh miệt vườn Lái Thiêu xinh đẹp thơ
mộng
bạt ngàn màu xanh dọc theo 13 km bờ trái
sông
Sài Gòn.
Cái màu xanh thanh bình yên ả đó
đã
len nhẹ vào câu thơ thật bình dị nhưng tiềm ẩn sức
lan
tỏa miên viễn của nhà thơ lãng du Bùi
Giáng
lúc ông dừng bước tại đây :
“ Anh về đất rộng Bình Dương
Trái cây và lá con đường cỏ xanh”
(Bùi Giáng – Trích bài thơ “ Anh về
Bình
Dương” 1959)
Vườn đất, cây trái, mương rạch sông nước cùng
với
những sinh hoạt lâu đời của nghề làm vườn như ươm trồng,
chăm
sóc, thu hái, tiêu thụ, thưởng thức, chế biến
cây
trái … đã tạo nên một không gian riêng
“
không gian văn hóa miệt vườn” (1) những người sinh trưởng
ở
đây khi đi xa vẫn thường nhớ về cái không gian xanh
mát
êm dịu nước lành trái ngọt ấy với bao hồi ức cảm
xúc
khó quên. Trong truyện ngắn “ Làng tôi”
nhà
văn Lý Lan đã nói thay cho nhiều người có
cùng
hoàn cảnh, tâm trạng với nhà văn về cái
không
gian văn hóa vườn quê ấy : “ Tôi nhớ mãi khi
làng
có giỗ, khách nơi khác đến dự tiệc đều xúyt
xoa
khen bánh trái vùng này ngon. Các
bà,
các dì chỉ nói nhờ nước ở vùng này
tốt,
đất cũng lành. Tôi nhớ chưa từng có bão
giông,
hạn hán hay lụt lội gì ở làng tôi. Trong
vườn
măng cụt lúc nào cũng râm mát, nên con
gái
vườn da trắng nõn, mắt biếc môi son. Ơû Sài
gòn
người ta hát ca dao rằng :
“ Tháng giêng mười sáu trăng treo
Anh sắm giường lèo cưới vợ Lái Thiêu” .
Còn ở
phía bưng biền chị hát ru em :
“Mẹ mang gã thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”
Và tác giả vừa tiếc rẻ vừa tự an ủi cho trường hợp của
mình
: “Mẹ tôi là con gái vườn, nhưng tiếc là
tôi
bị “ đô thị hóa” thành dân Chợ Lớn (…)
Ví
dụ mai mốt không còn làng nữa, tôi phải biết
rằng
mình là người hạnh phúc đã được sinh ra
và
lớn lên trong ngôi làng xứ vườn” (1).
Nếu có dịp đến thăm hoặc thăm lại vườn măng Lái
Thiêu,
chúng ta có thể biết thêm nhiều điều thú vị
về
loại trái cây tuyệt ngon, về vườn trái cây
tuyệt
đẹp ở phía Nam đất nước này.
Chẳng hạn như trên đã có nói đến,
ngoài
cái tên măng cụt dân dã quen thuộc,
chúng
ta còn biết người Trung Hoa gọi trái măng cụt là
trái
Mã cật hoặc Sơn trúc tử dù họ không trồng
được
măng cụt. Còn thư tịch cổ của ta gọi đó là
trái
Thổ lý hoặc Giáng châu tử ( tên vua Minh mệnh
gọi
trái măng cụt ở Miền Nam).
Nhà vườn cũng cho biết tùy theo loại cây mới được
trồng
hay đã trồng lâu năm mà có tên gọi
các
loại trái măng khác nhau. Trái măng mới cho từ
cây
mới trồng còn tơ thường có vị chua, măng cũ từ cây
măng
gìa có nhiều vị ngọt hơn. Những cây măng già
cổi
cho ra những trái măng nhỏ gọi là măng mù u. Măng
bẹo
là trái măng mọc núp trong lá che nắng
khá
ngọt. Măng có đường nứt trên vỏ gọi là măng nứt,
ruột
màu trong và ngọt. Gọi là măng trong vì
có
cơm ruột trong, không hột khá ngon. Còn trái
măng
đẹt của cây tơ thì gọi là măng sồi.
Kinh nghiệm của nhà vườn khuyên ta nên mua hoặc ăn
trái
măng vừa chín mới hái xuống, vì ruột cơm
còn
màu trắng thơm ngon ăn dễ tiêu hóa. Nếu trái
măng
để lâu ngày mủ đặc lại, cơm chuyển sang màu
vàng,
khá thơm ngon và ăn khó tiêu. Vì thế
măng
hái xuống không nên để lâu và
không
tiện vận chuyển đi xa.
Ngoài cách ăn tươi như hầu hết các loại
trái
cây khác từ những múi măng trắng tinh thơm ngon ấy
chúng
ta có thể làm ra món gỏi độc đáo : Gỏi măng
cụt.
Tất nhiên chỉ ở những nơi có sẵn trái măng mới tiện
làm
gỏi măng và cũng chỉ có thời vụ nhất định vào
mùa
măng chín. Ngày nay một số nhà hàng cũng
có
thể làm gỏi măng theo nhu cầu thực khách, nhưng
giá
một đĩa gỏi măng hẳn không thể rẻ được vì nguyên
liệu
trái măng thuộc vào lọai đắt tiền.
Ở nhà vườn chủ nhân cũng thường làm món gỏi
măng
này để chiêu đãi người thân, khách
ngay
dưới tàng những cây măng thì thật là
thú
vị. Người ta dùng phần vỏ trái măng ngâm
chút
chanh giấm để rửa mũ giúp cho những lát măng xắt ra vẫn
giử
được màu trắng rồi được trộn bóp chung với một hay trong
các
thứ như thịt gà, thịt heo nạc, tai heo, tôm luộc,
tôm
khô… Tất nhiên là không thể thiếu các
thứ
gia vị, rau thơm và một ít phụ gia tùy theo
công
thức bí quyết của người làm gỏi, giúp cho
món
gỏi có được mùi vị riêng thêm phần hấp dẫn.
Người ta cũng có thể dùng cơm ruột trái măng
làm
mứt măng dẽo với đường trắng được sên rim với một kỹ thuật
riêng.
Giá thành loại mức này chắc không thể rẻ
nên
cũng ít thấy bán trên thị truờng.
Từ rất lâu măng cụt được xếp vào lọai trái
cây
ngon, quí, chất lượng ổn định nên có giá trị
cao
trong ẩm thực và kinh tế nhất nước, chí ít cũng
vào
lọai hàng đầu. Thu nhập đời sống của người làm vườn
nói
chung, đặc biệt là vườn măng cụt, sầu riêng từ lâu
nay
vẫn ổn định, có chủ vườn trở nên khá giả.
Nhưng trong mấy năm gần đây, nhà vườn đang gặp nhiều
khó
khăn và có những khó khăn ấy đang đe dọa đến sự
phát
triển ổn định của vườn trái cây, trong đó
phải
kể đến vườn măng, vườn sầu riêng. Diện tích măng cụt thời
gian
đây không tăng như mong muốn, dự định của địa phương. Đặc
biệt
năng suất thu hoạch trái cây nói chung sút
giảm
đáng kể, có nơi đến mức báo động. Nhiều lao động
làm
vườn phải tạm chuyển qua làm một số ngành nghề
khác.
Khi tìm hiểu về hiện trạng này được biết có nhiều
nguyên
nhân, nhưng cái khó chính yếu tập trung
vào
các vấn đề sau: Trước hết điều kiện tự nhiên ngày
thêm
bất lợi. Cụ thể mực nước sông Sài Gòn nhiều nơi cao
hơn
mặt bằng vườn cây nhất là trong mùa nước lũ. Hệ
thống
kênh mương thoát nước chống úng ngập và hệ
thống
bờ bao ngăn nước lũ tràn đã lỗi thời không
đáp
ứng được tình trạng úng ngập thường xuyên nhiều
ngày
làm hư thối rễ các lọai cây ăn trái: việc xử
lý
nước thải công nghiệp chưa tốt góp phần đe dọa sự tồn tại
và
phát triển của vườn cây, làm cho năng suất sản
lượng
trái cây, đặc biệt là trái măng cụt giảm
sút
đáng ngại.
Theo thống kê của phòng nông nghiệp Địa Chính
địa
phương đã có thêm 3300 cây ăn trái,
chủ
yếu là cây măng cụt, sầu riêng đã bị hư chết.
Năng
suất riêng của cây măng cụt giảm đến 53% so với năm 2000.
trước
đây đạt trên 30 tạ/ha nay chỉ còn 15 tạ/ ha.
Hiện địa phương đang cố gắng tìm các biện pháp để
mau
chóng khắc phục tình trạng đáng quan ngại
này.
Dù vậy chúng ta vẫn tin rằng khó khăn trên
sớm
sẽ được vượt qua. Rồi vườn măng lại được tươi tốt, được mùa.
Trái
măng luôn vẫn là trái cây đặc sản ngon
quí
lâu đời của miệt vườn Lái Thiêu, của địa phương
Bình
Dương.
Và bên cạnh các khu công nghiệp vươn cao đồ
sộ
và năng động ấy chúng ta cũng không hề thiếu những
mảng
màu xanh sinh thái của các khu nhà vườn
cây
xanh và trái ngọt tạo ra một khoảng không gian vườn
quê
yên ã giữa cảnh quan tự nhiên và trong cả
tâm
hồn mỗi con người Bình Dương.
BÁNH BÈO MỸ LIÊN
CHỢ BÚNG AN THẠNH
NGUYỄN HIẾU HỌC
Trong cuốn “ Món lạ miền Nam”, nhà văn Vũ Bằng, một trong
những
người viết khá hay về đề tài ẩm thực Việt Nam ( qua
các
tác phẩm như “ Thương nhớ mười hai”; “ Miếng ngon Hà Nội”
đã
không quên nhắc đến “ món lạ” Bình Dương: “
Bánh
bèo bì Búng nổi tiếng là ngon” ( sđd TB
1980
).
Quả là như vậy, đã từ lâu người trong tỉnh cũng như
ở
các vùng lân cận, kể cả phần đông Việt Kiều
gốc
Thủ Dầu Một – Bình Dương, ai cũng biết đến món
bánh
bèo bì Búng hay bánh bèo Mỹ
Liên.
Món ăn này thường được người khác nhắc đến như
là
món ĐẶC SẢN BÌNH DƯƠNG và cũng có thể
nói
là món ngon của cả Nam Bộ như nhà văn Vũ Bằng
đã
tán thưởng …
Những ai đã một đôi lần được thưởng thức qua món ăn
có
dáng vẻ dân dã ngay tại thị trấn mang cái
tên
nôm na “ Búng” này thì hẵn là
khó
quên được …
Bánh bèo bì là món ăn kết hợp giữa
thứ
bánh bèo bằng bột gạo với món bì ( da heo )
và
thịt heo nạc, ăn cùng với nước mắm pha chua ngọt. Từ món
bánh
bèo truyền thống dân gian, qua sự sáng tạo chế
biến,
nhất là qua bàn tay khéo léo của một phụ nữ
địa
phương, nó trở thành món ăn đặc sản khá hấp
dẫn
của Bình Dương và đã tồn tại ít ra cũng gần
một
trăm năm nay.
Qua gia phả của chủ nhân cửa tiệm cũng như qua tìm hiểu,
được
biết hai người chủ thương hiệu Mỹ Liên I và II ở cạnh nhau
hiện
nay tại số 188 đường quốc lộ 13 cũ ( nay là đường ----- Khu phố
Thạnh
Hòa A, thị trấn An Thạnh, Thuận An ) là hai chị em ruột.
Bà
chị Nguyễn Thị Ba, bà em Nguyễn Thị A, cả hai bà ở
vào
lớp tuổi năm sáu mươi, thuộc thế hệ thứ ba của một gia
đình
đã ba đời chuyên bán món bánh
bèo
bì. Hiện nay họ vẫn tiếp tục theo đuổi nghề nghiệp của người mẹ
là
bà Nguyễn Thị Sáu ( 1912 – 1997 ). Nhưng người đầu
tiên
sáng che,á kinh doanh món ăn nầy chính
là
bà ngoại của hai bà là cụ Đỗ Thị Kiên, sinh
vào
khoảng thập niên cuối TK 19. bà Kiên đã khởi
đầu
nghề nghiệp bằng một gánh bèo bì bán rong ở
ấp
Thạnh Hòa và quanh chợ Lái Thiêu vào
những
năm đầu thế kỹ trước. Món bánh bán rong ấy qua
bàn
tay khéo léo và nhẫn nại của bà ngày
càng
được cải biến và thu hút thêm được nhiều
khách
hàng trong vùng. Đến khoảng năm 1914 – 1915 bà
Kiên
mới chính thức mở tiệm bán món ăn bánh
bèo
bì tại địa điểm cố định gần chợ Búng. Lúc đầu
khách
ăn vẫn gọi là tiệm bánh bèo Búng. Về
sau,
khoảng 1956 bà Nguyễn Thị Sáu mới lấy tên người con
gái
thứ sáu tên Nguyễn Thị Liên ( hiện là
giáo
viên hưu trí ) ghép với tên cô
cháu
ngoại Nguyễn Thị Mỹ đặt thành thương hiệu BÁNH
BÈO
BÌ MỸ LIÊN. Tiệm vẫn ở địa điểm cũ nên khách
quen
mới có thể gọi là tiệm bánh bèo Búng
hay
bánh bèo Mỹ Liên đều đúng cả.
Khi tìm hiểu về người có công chế biến ra thức ăn
nầy,
chúng ta được biết thêm một vài chi tiết ít
nhiều
có mối quan hệ giữa gia tộc của bà Kiên với sự
hình
thành một số địa danh ở quê nội bà. Cha bà
là
ông Đỗ Văn Sách quê ở Phú Lợi, Tổng
Bình
Chánh Trung đã là người góp công lập
nên
ngôi đình Phú Lợi. Theo thư tịch địa bạ cổ
(2)
Phú Lợi là địa danh rất xưa của một vùng đất quan
trọng
thuộc huyện Bình An, gồm các thôn Phú Lợi
Tây,
Phú Lợi Trung, Phú Lợi Đông, nơi có huyện lỵ
Bình
An ( nay là thị xã T. D. M ). Sau nầy, trong thời
chống
Mỹ địa danh Phú Lợi cũng được nhắc đến rất nhiều với sự kiện
nhà
tù Phú Lợi.
Trở lại với người góp công xây dựng nên
ngôi
đình Phú Lợi. Từ địa điểm ngôi đình nầy thị
xã
Thủ Dầu Một có thêm một số địa danh ngày nay rất
quen
thuộc như Chợ Đình, Ngã tư Chợ Đình … Còn
ông
Đỗ Văn Sách có vợ về An Sơn và con gái
ông
là bà Đỗ Thị Kiển đến lập nghiệp ở vùng An Thạnh –
Lái
Thiêu bằng nghề bán bánh bèo bì rồi
lưu
lại cho con cháu như đã biết về lai lịch của thương hiệu
bánh
bèo Mỹ Liên.
Cửa tiệm bánh bèo Mỹ Liên có tính
cách
nghề nghiệp gia truyền, nên dù có đã
lâu
cũng chỉ kinh doanh tại hai cơ sỡ tại Búng và gần
đây
mở thêm một cơ sở thứ ba gần chợ Thủ Dầu Một do con gái
của
bà Nguyễn Thị Ba làm chủ. Thương hiệu nầy không mở
rộng
nhiều chi nhánh nhưng vẫn giữ được tiếng tăm và vẫn được
khách
hàng ưa chuộng.
Sự thành công nói trên, phần lớn nhờ
vào
chất lượng món ăn nầy luôn được duy trì và
ổn
định.
Bánh bèo vốn là món ăn dân gian
lâu
đời và hiện nay vẫn có mặt ở nhiều địa phương, nhưng
riêng
món bánh bèo bì Bình Dương có
những
đặc điểm khác biệt. Chẳng hạn như hình dáng
không
giống như thứ bánh bèo đổ bằng chén tô như ở
một
số tỉnh miền Trung. Cũng không giống bất cứ loại bánh
bèo
ở các nơi khác thường được ăn với nhưn đậu xanh hay nhưn
tôm
xay nhuyễn trộn với hành mỡ. Đĩa bánh bèo ở
Búng
có đến cả chục chiếc bánh bèo tròn nhỏ,
thơm
dẽo trong thật xinh xắn. Trên vòng lõm chiếc
bánh
trắng ngà được điểm xuyết bằng những cộng hành xanh, chen
lẫn
các mãng nhưn đậu xanh màu vàng, bên
cạnh
chén nước mắm pha thoang thoảng mùi vị chua ngọt cay nồng
nhiều
màu sắc. Màu đỏ tươi của ớt, màu cam lẫn trắng của
những
sợi cà rốt, củ sắn ngâm dấm chua vừa độ. Bánh
bèo
trên được làm từ loại gạo đặc sản như nàng
Phẹât,
Lúa Tiêu… và phải là thứ gạo mùa 6
tháng
xay để qua một thời gian cần thiết. Gạo ấy qua nhiều công
đoạn
vo, ngâm rồi mới đem xay thành bột nhuyễn và phải
qua
nhiều lần tẻ nước ( liên tục đổ phần nước trong trên mặt
bột
lắng ) mới đem bột ấy đổ vào khuôn nhôm ( thời trước
đổ
bằng chén sành ) hấp thành bánh. Được biết
từ
các khâu nguyên liệu như gạo, đậu, bì, thịt,
các
chất phụ gia làm nước chấm, đến rau củ, gia vị đều phải được
chọn
lựa kỷ đúng liều lương và được chế biến theo một qui
trình
nghiêm ngặt cẩn thận.
Điều đáng nói hơn cả: tuy gọi là bì ( da
heo
) nhưng thực ra đây là thứ hổn hợp bì với hơn
phân
nửa là loại thịt nạc ngon được xắt thành sợi dài
tẩm
bột thính rang vàng thơm … Nhờ đó món
bì
có mùi thơm thật hấp dẫn pha lẫn mùi béo
ngọt
bùi và có độ dai mềm vừa phải tạo nên
các
phần “ nhân” đặc trưng của món bèo bì xứ
Búng.
Ai cũng biết với các thức ăn phải dùng kèm với
nước
chấm, nước chan như bánh cuốn, bánh bèo bì
chẳng
hạn, sự thành công phần lớn tùy thuộc vào kỷ
thuật,
cũng có thể nói là nghệ thuật pha chế làm
ra
món nước chấm đó. Chính chất lỏng nước chấm trong
các
món ăn nầy là phần tiếp xúc tác động đầu
tiên
tức thì cũng như có thể để lại cái dư vị thỏa
thích,
dễ chịu sau cùng nơi vị giác của thực khách. Một
bí
quyết nhỏ, nhưng phải được luôn tuân thủ là
các
chất lỏng dùng làm nước chấm cho bánh bèo
bì
phải được đun sôi để nguội, tuyệt đối không dùng
nước
chấm đã pha chế qua đêm, nghĩa là không
dùng
phần nước chấm dư thừa từ suất bán của ngày trước ( bắt
đầu
từ sáng đến khỏang 9 giờ đêm ).
Yếu tố cũng không kém quan trọng đã giúp cho
thực
khách dễ dàng chấp nhận món ăn nầy. Đó
là
giá bán tương đối bình dân, một đĩa
bánh
bèo bì có giá tương đương một tô phở,
tô
bún bò, hủ tiếu chỉ trên dưới mười đồng bạc Việt
Nam.
Có lẽ vì thế, khách ăn đến đây khá
đông
và đủ các giới. Người ở gần đến để ăn sáng hoặc
đổi
bửa thay cơm trưa, cơm tối. Người ở xa tiện đường ghé ăn thử,
khách
cũ đến vì hợp khẩu vị. Du khách tìm đến vì
tiếng
tăm của thương hiệu. Họ đến để ăn một vài dĩa hoặc mua về
đôi
ba suất cho người thân đã quen ăn món nầy. Theo
ký
ức của chủ tiệm, rất nhiều nhà văn nhà báo, nghệ
sĩ
Sài Gòn trước đây vẫn thường đến quán thưởng
thức
món bánh bèo bì Mỹ Liên.
Ở cửa tiệm tại đây còn có một vài món
ăn
vốn đã gắn liền với thương hiệu bánh bèo,
bì
từ khá lâu như món bì cuốn ( bì thịt
và
bánh tráng làm thành cuốn ) bún thịt
nướng,
kẹo hạt điều trộn mè đường đổ trên miếng bánh
phồng
nhỏ. Đặc biệt, thêm một đặc sản của Bình Dương món
nem
Lái Thiêu có cùng tuổi với thương hiệu
bèo
bì vẫn được bày bán tại đây và
đã
tạo được sự tín nhiệm liên kết giữa hai thương hiệu nầy.
Chung
quanh món ăn đặc sản này không thiếu những giai
thọai,
chuyện kể về sự tín nhiệm, thu hút của món
bánh
bèo bì ở Búng đối với thực khách gần xa.
Nhất
là đối với khách lâu ngày xa xứ, nay
có
dịp trở lại quê nhà muốn tìm đến món ăn xưa
nơi
quán cũ …
Chẳng hạn một vài mẫu chuyện kể lại từ các chuyện đi thực
tế
của một số nhà báo dưới đây về món ăn nổi
tiếng
nầy:
“ Khách ăn từ Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên
Hòa,
ngày nào cũng có. Có khi tiền ăn cho cả gia
đình
còn ít hơn tiền xe đi lại, có gia đình
không
tiện đến được phải nhờ xe ôm đến mua về hộ …” Một ông
khách
người Việt quốc tịch Pháp, tên Nguyên – Paul về
dưỡng
sức ở Thành Phố Hồ Chí Minh đã cho biết:”
Cách
đây 40 năm tôi có đến ăn quán nầy và
sau
nhiều năm sống ở nước ngòai và tôi vẫn nhớ chờ
có
dịp về quê sẽ cùng gia đình ăn một bữa bánh
bèo
bì”. Lại có một vị khách Việt Kiều ở Mỹ tên
là
ông Hai – Gò Công trước khi về nước nghe được tiếng
tăm
bánh bèo Mỹ Liên – Búng nên ông
đã
lần theo địa chỉ lặn lội tìm đến đây để thưởng thức
món
đặc sản bình dị của quê hương nầy. Một Việt Kiều
khác
vốn là khách cũ, ở Pháp đã hơn 60 năm, khi
về
đến đây ( khu vực chợ Búng ) không sao tìm
lại
được vị trí tiệm bánh bèo khi xưa vì cảnh
trí
có quá nhiều thay đổi. Nhưng bất ngờ, nhờ nhìn
thấy
tấm ảnh của bà Nguyễn Thị Sáu ( người chủ quán
vào
thời ông vẫn thường đến quán ) treo trên một tủ thờ
mà
ông tìm được nơi ông cần tìm. Nhờ đó
ông
đã thưởng thức được món ăn sau 60 năm xa cách vẫn
còn
đọng trông ông một chút dư vị mà theo
ông,
không chỉ là dư vị của một món ăn mà
có
cả một chút mùi vị của quê hương(3).
Trên đây chỉ là một vài nét tiêu
biểu
nói về sự tín nhiệm, những tình cảm của nhiều thế
hệ
thực khách dành cho thương hiệu này qua bao năm
tháng
thăng trầm…
Thế cón sự nhìn nhận của chính địa phương, nơi
món
ăn này được hình thành, tồn tại và trở
thành
một món đặc sản thì như thế nào ?
Dưới đây cũng chỉ là một vài ghi nhận bước đầu cũng
nên
nhắc tới : Vào năm 1997, nhân lần chiêu đãi
một
đoàn khách đến thăm Bình Dương, tiệm Mỹ Liên
được
UBND tỉnh Bình Dương mời đến giao trách nhiệm chuẩn bị
cho
một tiệc chiêu đãi trọng thể bằng món “ bánh
bèo
bì, gỏi cuốn … và một vài món đặc sản địa
phương”.
Sau bữa tiệc, chủ tiệm mới biết được những khách quí vừa
chiêu
đãi là đoàn đại biểu của nước Lào anh em,
trong
đó có vị Tổng Bí thư Đảng Cách mạng
nhân
dân Lào.
Tháng 12 năm 1999 món bánh bèo bì
được
chọn đại diện cho tỉnh Bình Dương dự thi liên hoan : “ Gặp
gở
đất Phương Nam” đã vinh dự giành ngay được giải A của
liên
hoan ẩm thực do Công ty Du lịch TP. Hồ Chí Minh tổ chức.
Thời gian qua, mỗi khi có các hội nghị, giao lưu, gặp gỡ
về
ẩm thực liên tỉnh, liên khu vực như ở Tp. Hồ Chí
Minh,
Đồng Nai, món đặc sản bánh bèo bì Mỹ
Liên
thường được chọn mời dự thi, tham dự và luôn nhận được
các
giải thưởng cao.
(1) Tác phẩm mà nhà văn Sơn Nam
đánh
gía “ sẽ còn lại trong thời gian dài…mà
khó
có người theo kịp” ( lời giới thiệu sđd TB 1980- trang 6 )
(2) Nguyễn Đình Đầu “Nghiên cứu địa bạ
Nam
kỳ lục tỉnh”
(3) Lược dẫn lại của các nhà báo
H.
Tâm, Duy Chí trên các báo Phụ Nữ,
Bình
Dương.
THỊT DÊ TIỀM THUỐC BẮC
CHÁNH NGHĨA - BÌNH DƯƠNG
NGUYỄN HIẾU HỌC
Nói về sự khóai khẩu hàng đầu trong ẩm thực, người
Việt
Nam thường nhắc đến “ rượu ngon, thịt béo”. Nhưng đối với người
Trung
Quốc họ còn nói rõ hơn: “ rượu ngon, dê
béo”.
Được gọi đích danh như vậy có lẽ vì dê
là
loại gia súc quí mà không hiếm. So với
trâu
bò, ngựa thường dùng để cày bừa, cởi tải
còn
dê chỉ nuôi để dùng vào việc giết thịt phục
vụ
cho ẩm thực. Dê quí vì trước hết ngày xưa
được
dùng vào việc tế lễ hoặc trong tiệc tùng trang
trọng.
Ngoài việc dê rất bổ dưỡng, nếu biết cách chế biến
nấu
nướng thịt dê cũng là loại thịt ngon, có thể
làm
được nhiều món hấp dẫn. Thịt dê thường thu hút thực
khách
thuộc phái mày râu, không chỉ vì
đó
là thức ăn khá ngon mà hình như còn
gợi
cho họ sự tò mò, khám phá cái
công
năng kỳ diệu của món thịt này. Đôi khi đó
chỉ
là những tưởng tượng quá mức phong phú về sự bổ
dưỡng
của thứ thịt được mệnh danh một cách nữa như nể trọng nửa
như
đùa vui : là thịt của “sư phụ”.
Dê qúi mà không hiếm vì dễ nuôi,
sinh
sản nhanh, chóng lớn, giá thành thịt thường
không
đắt. Dù không thông dụng như thịt heo, bò ,
gà
vịt nhưng thịt dê ngày càng có đông
người
ưa chuộng. Cao xương dê được dùng như một dược liệu trị
bệnh
xương cốt suy yếu; rượu huyết dê được xem là rượu bổ, được
dùng
ngay để khai vị trong bữa tiệc. Các món ăn được chế biến
từ
thịt dê ngày càng đa dạng, hấp dẫn và trở
nên
phổ biến ở nhiều quán tiệm .
Riêng ở Bình Dương, món thịt dê, đã
xuất
hiện từ khá lâu , chẳng hạn như món càri
dê
cay nồng nấu theo phong cách của người Ấn khá phổ
biến….Gần
đây nhiều tiệm quán chuyên bán các
thức
ăn từ thịt dê như các món thịt dê luộc,
tái
dê, chạo dê, dê nướng , dê xào, nhựa
mận.
Nhưng phổ biến và đông khách nhất vẫn là lẩu
dê.
Thịt dê khi làm luôn được giữ nguyên lớp da
thui
vàng lúc ăn nhai nghe thấy giòn sừn sực để thực
khách
biết chắc chắn đây là thứ thịt dê chính
hiệu.Các
thứ rau ăn kèm với lẩu dê cũng rất phong phú,
thường
thì không thể thiếu món rau muống cọng non mượt
được
cắt thành khúc ngắn và cả các thứ rau thơm,
rau
mùi….
Nhưng món đặc biệt bổ dưỡng hơn cả ở đây là
món
tiềm dê thuốc bắc của người Việt gốc Hoa ở khu vực Chánh
Nghĩa
Thị Xã Thủ Dầu Một. Đây là món ăn đặc sản
được
xếp vào các món ăn bổ dưỡng hàng đầu
và
khá phổ biến của người Hoa – Việt. Nhiều người biết làm
món
ăn này. Nhưng một trong những nơi nổi tiếng về món
dê
tiềm thuốc bắc phải kể đến nhóm người Hoa Phước Kiến ở khu
Chánh
Nghĩa- Bình Dương. Họ thường được mời đến các buổi tiệc
tùng,
chiêu đãi chỉ để nhờ nấu giúp cho món
dê
tiềm thuốc bắc đặc biệt nói trên. Đặc biệt ở đây
không
chỉ ở kỹ thuật nấu nướng mà còn nhờ vào các
biệt
dược thuốc bắc nấu kèm cũng như các món thực phẩm
phụ
gia để nấu tiềm.
Theo kinh nghiệm của người chuyenâ nấu thịt dê, yêu
cầu
tiên quyết là phải khử hết hoặc giảm thiểu mùi
hôi
đặc trưng của thịt dê trứơc khi dùng thịt để nấu
thành
thức ăn. Bởi vậy thịt dê tuy ngon, bổ dưỡng nhưng khó
làm,
phải mất khá nhiều công phu. Mồ hôi con dê vốn
nặng
mùi khó chịu, tuyến bài tiết nầy ở sâu trong
da.
Vì vậy trước khi xẻ thịt, phải biết cách làm cho
chất
mồ hôi thóat ra khỏi thân con dê.
Một người rành về chuyện mổ dê đã cho biết
“Làm
dê không thể cắt tiết, mổ bụng ngay được , bởi mùi
dê
từ thân thể nó phải được trục ra hết trước khi mổ xẻ.
Có
hai cách làm hết mùi hôi dê: một
là
cột dê lại dùng roi đánh cho dê nhảy dựng
lên,
tháo vã mồ hôi, liên tục trong vài giờ
liền,
nhưng phương pháp trung cổ này dã man quá
!”.
cách thứ hai là dùng rượu cho nó uống, rượu
say
làm con dê xuất mồ hôi như tắm hơi. Cách nầy
tỏ
ra tiện lợi, nhanh chóng và hiệu quả hơn hẳn, nên
ngày
nay được nhiều người dùng đến .
Rồi tác giả miêu tả cảnh cho con dê uống rượu theo
cách
thứ hai: “Một con dê đực khá lớn được trói gô
bốn
chân khiêng đặt ra giữa sân….Vị chủ gia cầm chai rượu
đế
đổ vào miệng con dê đang ở tư thế dê không
chống
trả được. Mấy tiếng”ực” liền nhau, xị rượu đã cạn … Buông
tay
ra chủ nhà đắc ý- Đủ đô, sau khoảng một phút
“sư
phụ” giẫy gịua dữ dội , mồm rít lên những tiếng be be,
lúc
đầu còn to, sau nhỏ dần, yếu dần… Cùng một lúc
mùi
hôi xông ra từ cơ thể “sư phụ”. Tòan thân “ sư
phụ
ướt đẫm mồ hôi chẳng kém người ta tắm hơi. Màn “tắm
hơi”
kéo dài khỏang nửa giờ, đến khi “sư phụ” nằm thẳng cẳng
vì
men rượu đã ngấm được khiêng đi làm công việc
xẻ
thịt để chế biến thành thức ăn..”
Theo kinh nghiệm của người chuyên nấu món tiềm
dê
ở Chánh Nghĩa cho biết ngòai cách tống xuất chất
mồ
hôi từ con dê, theo cách như vừa nói
trên
,người nấu thịt dê nói chung, đặc biệt là nấu
món
tìềm dê, còn phải biết cách chọn lựa lọai
thịt
các bộ phận thích hợp cho món ăn muốn nấu. Thường
nên
chọn thịt dê tơ, nếu gặp phải “thịt dê cụ” (dê
già),
phải nấu kèm chất phụ gia làm cho thịt dê dễ mềm.
Và
có thể tiếp tục khử múi hôi ở thịt dê
đã
làm sẳn bằng cách dùng rượu nếp, có pha
gừng
để rửa sạch thịt dê trước khi tẩm ướt chế biến. Cuối cùng
chưng
cất thủy thành món tiềm dê và món ăn
nầy
phải dùng khi còn nóng ….
Khác với các món ăn thông thường, tiềm
dê
rất bổ dưỡng, làm gia tăng sức lực. Theo Đông Y, thịt
dê
bổ dưỡng cung cấp nhiều nhiệt lượng, nhất là khi món ăn
lấy
từ những bộ phận quí của con dê như trái cật, ngọc
dương
( dái dê ) và “ pín” dê. Nếu nồi tiềm
hội
tụ đủ ba thứ “ Tam sên” nói trên cộng với các
loại
thuốc Bắc thuộc loại “ biệt được”, thì công năng bổ
dưỡng
sẽ đạt tới mức tối ưu. Ngoài các “ biệt dược”, nồi tiềm
còn
được nấu kèm một số thực phẩm “ đặc dụng” làm cho tiềm
thêm
bổ và dễ ăn. Được biết các loại thuốc Bắc được
dùng
cho tiềm dê như sâm, qui, địa, bạch quả, hoài sơn,
ý
dĩ, táo tàu … Được nấu chung với tàu hủ ki, củ cải
và
luôn luôn có hạt sen. Đây là món
phụ
gia không thể thiếu. Hạt sen ( Liên Tử ) sẽ làm dịu
thần
kinh, dễ ngủ, nhất là cân bằng tính năng của
món
tiềm dê vốn quá sung mãn về năng lượng, bổ dưỡng.
Hiện nay tại Bình Dương thực khách muốn tìm
các
món ăn ngon chế biến từ thịt dê là việc khá
dễ
dàng. Ở đây có khá nhiều tiệm quán
bán
kèm hoặc chuyên bán các món thịt
dê
trong đó không thiếu những tiệm có thâm
niên
trên vài chục năm và khá nổi tiếng.
Các
món dê thường được người ăn ưa thích như thịt
dê
luộc, tái dê ( tương gừng ), dê nướng, dê
xào,
dê áp chảo … Nhưng món phổ biến nhất vẫn là
món
lẩu dê, món này không chỉ dành
riêng
cho kẻ mới “ nhập môn” mà ngay cả những người sành
ăn
món “ sư phụ” cũng ưa thích. Các trường hợp cả gia
đình
hay một nhóm quí bà, quí cô
quây
quần chung một cái lẩu dê bốc khói ở một góc
quán
nào đó vào một buổi trời se lạnh là chuyện
không
quá hiếm ở đây. Nhiều người thích ăn vì thịt
dê
không quá đắt lại khá ngon và nhất là
có
tâm lý tò mò muốn được kiểm nghiệm lại loại
thức
ăn vốn dễ kiếm nhưng có quá nhiều lời tán dương,
khen
tặng về sự sung mãn, bổ dưỡng của nó.
Quán thịt dê xuất hiện sớm nhất ở Bình Dương
có
lẽ là quán Hiệp Ký ( đối diện cơ quan Phòng
Cháy
Chữa Cháy của tỉnh ). Quán thịt dê có qui
mô
lớn, đông khách là quán ông Ba Hiếu ở
Đại
Lộ Bình Dương gần Suối Cát. Ngoài ra còn
một
số quán quen thuộc, cũng khá nổi tiếng về các
món
dê như quán ở Miếu Tử Trận, quán Thanh Sơn ( đường
Nguyễn
Trãi Lái Thiêu, gần cầu Ông Bố ); quán
lẩu
dê đường Trừ Văn Thố ( đối diện nhà hàng Bông
Sen
). Gần đây quán Diệu Hạnh ở khu dân cư Chánh
Nghĩa
cũng có bán các món ăn thịt dê lại
lai
rai với rượu Bàu Đá ( Bình Định )nổi tiếng...
Đặc biệt, từ khá lâu ở Bình Dương có nhiều
người
chuyên nghề nuôi dê vì ở đây
có
khá nhiều khu rừng chồi. Chẳng hạn như điểm bán dê
sống,
dê thịt đối diện với thư viện Tỉnh là một địa chỉ quen
thuộc
của các tiệm bán món ăn thịt dê.
Nếu bạn muốn có một món ăn bổ dưỡng vừa ý
có
đủ cơ sở về khoa họ dinh dưỡng đồng thời vừa thưởng thức một
chút
phong vị ẩm thực Phương Đông, xin hãy tìm đến
món
tiềm dê thuốc Bắc. Đặc biệt là món tiềm dê
được
nấu bởi nhóm người Hoa – Phước Kiến tại vùng Chánh
Nghĩa
– Bình Dương.
Đây là món ăn được xếp vào lọai bổ dưỡng,
cao
cấp nhưng dễ tìm ra nguyên liệu thực phẩm để chế
biến,
giá thành lại không đắt. Bởi vậy trong các
dịp
họp mặt gia đình hoặc chiêu đãi bạn bè
khách
quí, người Hoa – Việt ở Bình Dương vẫn thường tổ chức
làm
món ăn đặc biệt này.
Đọc tiếp phần bốn