Ẩm Thực
Bình Dương
HOÀNG ANH
Nói đến “ẩm thực Bình
Dương”, ngay những người Bình Dương cũng có vẻ thờ ơ
lãnh đạm: “ Bình Dương có gì đâu
mà viết !”
Mọi người đều có lý nào
đó mới suy nghĩ như thế. Bởi xưa nay nói đến ẩm thực
người ta chỉ nghĩ đến những trung tâm lớn như Hà Nội, đất
của ngàn năm văn vật; hay cố đô Huế, đất của các
bà phi bà chuá; Sài Gòn, nơi giao
lưu và hội tụ các nền văn hoá thế giới, hòn
ngọc của Viễn Đông một thời….
Những nơi ấy sở hữu quá nhiều thứ để
có quyền mà tự hào, mà giới thiệu, từ lịch
sử, truyền thuyết, nước non cho đến con người. Những món ăn của
Hà Nội đúng là trân châu bảo vật,
khiến người BD nghe đến đã đủ thèm muốn và
kính trọng. Nào là sâm cầm, cà cuống,
chim ngói tần với hạt sen, ý dĩ, với miến song thần, với
thịt lợn nạc, với mộc nhĩ nấm hương….
Huế, lại là chốn kinh kỳ đô hội của một
thời. Món ăn và thuật nấu nướng Huế cầu kì, tinh
tế. Cũng vì vậy mà khi ăn, người Huế dọn mỗi thứ một
chút xíu, bày trên những cái
điã con, khiến người ăn không bao giờ thấy chán,
vì không có thứ gì ăn được nhiều, nhưng lại
được thưởng thức nhiều món. Là chốn kinh đô,
có tới 1300 món ăn nấu theo lối Huế !
Sài Gòn, trung tâm văn
hoá thương mại của cả nước, nơi hội tụ người dân của mọi
miền, đặc sản địa phương do vậy gần như không thiếu món
chi. Nằm bên cạnh một Sài Gòn chói ngời
ánh điện, những ngọn đèn ở Bình Dương trở
nên mờ nhạt, ngọn tỏ ngọn lu.
Ẩm thực Bình Dương, đúng là
không có chi hấp dẫn với mọi người, một đề tài dễ
bị giễu cợt, đàm tiếu, và những người Bình Dương,
do vậy có vẻ trở nên rụt rè sợ hãi
không ai dám đá động chi đến cái gọi
là “Ẩm thực Bình Dương”.
Ngày nay phở được chọn là thức ăn
tiêu biểu của Việt Nam trên thế giới, công trạng ấy
không thể không kể đến Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ
Bằng, những người đã hết lòng tán tụng phở. Ngay
cả cái món rọc mùng, nghe ông Thạch Lam ca
ngợi, ta có cảm tưởng như đó là một loại linh dược
ngàn năm trên núi thuở xa xưa, hoá ra
đó là cọng bạc hà mà người miền Nam
nào cũng đã ăn từ hồi còn bé: “ Tôi
còn nhớ rõ trên đầu lưỡi tê như một lượt
rùng mình nhẹ, cái vị đậm ngọt và hơi ngưa
ngưá của những miếng rọc sơn hà ( bạc hà, rọc
mùng ). Cái thứ rau này, sao mà đi với
bún thế ! Tưạ như trời sinh ra để nấu bún, và
cái hoà hợp dịu dàng không ở đâu
là không có, trong một tác phẩm văn chương
cũng như trong một nồi bung nấu khéo. ( Thạch Lam )
Món ăn ngon, như vậy là còn do
người ta có thể nhận ra giá trị và biết
cách khen nó hay không. Món ăn Bình
Dương không nổi tiếng, lỗi ấy một phần bởi chính những
người Bình Dương đã thờ ơ, phụ rẫy món ăn của
chính mình.
Rất may là còn có lắm người
phương xa nói hộ thay cho dân Bình Dương,
làm cho nó không bị chìm vào
quên lãng:
Ông Vũ Bằng trong tác phẩm “ Món
lạ miền Nam “ viết :
“ Bánh
bèo bì ở Búng nổi tiếng là ngon; tô
mì Bà Điểm; hủ tiếu chợ giưã Mỹ Tho; bánh
in Cao lãnh; nem Tân Cương ăn mịn xớt mà
giòn; tôm nướng Tân Thuận Đông vưà thơm
vưà ngọt.
Gà
nhúng hèm ngon nhất là Bình Hoà; con
“ móng tay “ Long Hải; bưởi Tân Triều; măng Lái
Thiêu; cam Cái Bè; dưà xiêm Mỹ; dưa
hấu Cầu Ngang…”
Trong đôi
dòng giới thiệu sơ qua món ngon của miền Nam, Bình
Dương được nhà văn kể ra hai món “ bánh bèo
và măng cụt “.
Nhà thơ Bùi Giáng trên
bước lãng du phiêu bồng đắm mình trong vẻ đẹp của
trần gian vẫn không quên nhắc đến món ngon của
Bình Dương: “ Nhân gian thương nhớ rộng thênh thu
nào Lục Tỉnh bờ Tiền Giang Châu Đốc em Sa Đéc Hốc
Môn mùa Lái Thiêu Sầu Riêng Măng Cụt
hương mật mớm chảy tràn môi nhau”.
Và còn rất nhiều nữa nào Sơn
Nam, Nguyễn Hiến Lê, vua vọng cổ Uùt Trà Ôn (
đã làm cảm động bao người với bài Trái
Gùi Bến Cát), vua hề Văn Hường ( muì mẫn mà
dí dỏm với Gánh Bún Dĩ An)…Danh sách ấy
thật dài,với những lời ca ngợi hay hoài nhớ về món
ăn ngon và lạ của một vùng đất mà họ đã
có lần trãi qua và không quên.
Chỉ mới kể sơ qua, cũng đã thấy là
cái ăn cái uống của Bình Dương cũng được người ta
nói đến nhiều. Cớ sao là người BD, ta lại cứ bảo rằng “
có vì đâu mà nói”…Tại ta mặc cảm tự
ti chăng? Bụt nhà không thiêng chăng ? Vợ đẹp
là vợ của người, món ăn ngon, chẳng lẻ cũng phải
là món ăn của người chăng ? Hay chúng ta có
yêu cầu cao quá, cứ nghĩ rằng ẩm thực phải là những
sơn hào hải vị mới xứng gọi là ẩm thực? Ông
Lâm Ngữ Đường không nghĩ thế, ông bảo : “ Tình
yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng
món ăn mà cha mẹ cho mình ăn lúc
mình nhỏ tuổi”. Câu nói này đáng để
ta suy ngẫm.
Do đó giới thiệu món ăn của một điạ
phương cũng không phải là để khen hay chê, mà
cái chính là để tìm những giá trị
văn hoá của vùng đó được phản ánh qua
cách ăn uống. Bởi để nhận diện một dân tộc ngòai
lịch sử, điạ lí, ngôn ngữ…người ta còn nhận biết
thông qua thức ăn. Người Nhật là món cá sống
sushi, người ý là món mì ống spaghetti,
người Aán là món gia vị curry, người Nga là
trứng cá caviar…
Mỗi dân tộc có một kiểu cách nấu
nướng và ăn uống riêng. Người Nhật thích ăn sống,
người Pháp thích món nướng đút lò,
người Ấn thích ăn bóc, người Tây thích
dùng dao, nĩa……Cách nào thì cách,
qua chế biến món ăn, nhìn thức ăn nào đó,
ta cũng sẽ thấy được trình độ văn mi nh, văn hóa, thấy
được tâm hồn, phong cách và phần nào bản sắc
của cả cộng đồng cư dân nơi ấy.
“ Một cách cầm đuã, một cách
đưa thià lên húp canh báo cho ta biết nhiều
về một hạng người hơn là một trăm pho sách. Và
nhất là những thức họ ăn…Báo cho tôi biết anh ăn
gì, tôi sẽ nói anh là người thế nào “
“ Ăn và chơi, phải, đó là hai điều
hành đọâng trong ấy người ta tỏ rỏ cái tâm
tính, cái linh hồn mình một cách chân
thực” ( Thạch Lam )
Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng nghệ thuật
chế biến và thưởng thức thức ăn chính là đỉnh cao
của một dạng văn hóa văn tộc.
Ăn uống là một nét văn hóa,
phản ánh trình độ, đặc điểm văn hóa, lịch sử, địa
lí của một cộng đồng dân tộc nhất định.. Sự hình
thành cách ăn uống của một dân tộc, của một
vùng, là kết quả của một nền văn hóa ra đời trong
cảnh quan và lối sống riêng của vùng đó.
Giới thiệu món ăn của một địa phương,
do vậy cái chính là để tìm những giá
trị văn hóa của vùng đó được phản ánh qua
cách ăn uống. Giá trị đó thể hiện ở chỗ biết
tìm những nguồn thực phẩm thích hợp với điều kiện tự
nhiên của khu vực cư trú, tìm được những
cách chế biến thông minh thích hợp với thời tiết
của địa phương. Và cao hơn nữa, qua cách ăn ta sẽ thấy
mối quan hệ xã hội giữa những con người trong một cộng đồng. Một
câu tục ngữ Tây phương nói : “ Cho tôi biết
anh ăn gì, tôi sẽ nói anh là ai”. Thức ăn
là một bằng chứng về địa vị xã hội, về đời sống văn
hóa và trình độ văn minh của một con người.
Chúng ta hãy lắng nghe
nhà văn hoá Lâm Ngữ Đường phát biểu về vai
trò của ẩm thực trong đời sống của con người :
“ Chúng
ta bị vấn đế ẩm thực chi phối tới nỗi từ cách mạng, hoà
bình chiến tranh, ái quốc, đến tình thân
ái quốc tế, đời sống hàng ngày của cá
nhân, của xã hôị đều chịu ảnh hưởng sâu xa
vì nó. Nguyên nhân cách mạng
Pháp ở đâu? Có phải tại Rousseau, Voltaire, Diderot
không ? Không. Chỉ tại vấn đề ẩm thực. Nguyên
nhân cách mạng Nga và cuộc thí nghiệm
của Sô Viết ? Cũng tại vấn đề ẩm thực, Nã Phá
Luân nói câu này thật thâm thuý
: “ Quân đội ra trận với bao tử của họ “. Khi dân
chúng đói thì đế quốc tan vỡ mà những chế
độ bạo ngược mạnh mẽ nhất cũng phải sụp đổ. Đói thì mọi
người không chịu làm việc, quân lính
không chịu chiến đấu, các cô danh ca không
chịu hát, các ông nghị viên không chịu
họp hội, ngay đến các vị Tổng thống cũng không chịu trị
nước nưã.”
Sử không chép rõ là
bà vợ Khổng Tử bị chồng đuổi hay tự ý ra đi vì
ông chồng khó tính quá, gạo muốn cho thật
trắng, thịt muốn bằm cho thật nhỏ ( thực bất yếm tinh, khoái bất
yếm tế ), thịt không có thứ nước chấm thích hợp
thì không ăn, cắt không ngay ngắn cũng không
ăn, sắc không tươi cũng không ăn, mùi có hơi
nặng cũng không ăn…
“ Khổng Tử bỏ nước Lỗ vì nó quên
không biếu ngài mấy lạng thịt. Tôi xem nghề bếp
núc là một trình độ của văn hóa văn minh.”
Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, có đến hai quẻ
chuyên bàn về chuyện ẩm thực của con người. Cụ Hải Thượng
Lãn Ông trong quyễn Y Tôn Tâm Lĩnh cũng viết
nhiều về ăn uống, những điều này cho thấy tự xưa người ta
đã ý thức được việc ăn uống có vai trò quan
trọng trong đời sống con người biết chừng nào.
Nghiên cứu về thức ăn, chúng ta
tình cờ có những phát hiện lí thú
khi khám phá ra cách uống trà sủi bọt của
dân quê Bình Định, sao mà giống cách
uống của mấy ông già Bình Dương ngày xưa đến
thế! Chúng ta không quên rằng vùng
Bình Chuẩn ngày nay từng lừng danh làng võ
bà Trà, một tuỳ tướng của Tây Sơn từ Bình
Định lưu lạc vào đây. Còn cách
hút thuốc rê của Bình Dương thì lại y chang
mấy ông dưới miệt Cà Mau. Miền Bắc xa xôi
cách trở, thế mà vùng Hà Tĩnh sao cũng
nói “ bới cơm “ giống như mình. Còn ở Quảng Nam,
họ cũng ghiền trái mít non giống mình quá
đó chứ !
Do đó khảo cứu về ẩm thực, không chỉ
là để bình phẩm chuyện dở ngon, mà nó
còn giúp ta nhận ra biết bao điều về lịch sử, phong
hóa của một vùng đất và cư dân sinh sống
trên vùng đất đó.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, trưởng nhóm
nghiên cứu văn hoá ăn uống VN, trong một bài viết
đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 26-6-2004, phát
biểu :” Phải cứu lấy những món ăn độc đáo trong
các gia đình lớn.Trước hết chúng ta cần có
kế hoạch sưu tầm những món ăn từ những gia đình có
truyền thống lâu đời về ăn uống…”.Ông đề cập đến những
quê hương nổi tiếng, trong đó có Bình Dương.
BD có địa giới phía tây
là sông Sài Gòn ( Đại Nam Nhất Thống
Chí gọi là sông Bình Giang?), phía
đông là sông Đồng nai ( xưa gọi sông Lộc
Dã ), ở giữa là một vùng đất rộng nhấp nhô
những gò đồi, truông rừng, trảng cỏ, ruộng lúa
và vườn cây ăn trái.
Bình Dương nằm giáp ranh với hai
thành phố lớn trên phạm vi cả nước là Thành
Phố Hồ Chí Minh, thành phố Biên Hoà, thuộc
tỉnh Đồng Nai và một tỉnh miền núi là Bình
Phước. Địa thế này khiến cho Bình Dương vừa có
hình ảnh của một thành phố hiện đại với những xa lộ
thênh thang sáng trưng ánh điện quang, vừa
có nét hoang dã của núi rừng âm u
xanh thẫm.
Đường về BD hết lên rồi lại xuống, uốn lượn
chập chùng như dãi lụa đào của các cung nữ
trong điệu vũ Nghê Thường thưở xa xưa. Hai bên con đường ấy
là những khu vườn trái cây rậm mát, những
thữa ruộng lúa xanh mơn mởn, những cây cao thẳng
vút in hình trên nền trời xanh, xa xa là
những giàn bầu, bí, khổ qua lấm tấm hoa vàng,
những ngôi mã đá ong đen nằm rãi rác,
lưa thưa vài ngôi nhà ấp ủ im lìm giữa
tàng cây mít hay vú sữa xanh um.
Tuy không có được một danh lam thắng cảnh nào
đáng kể, nhưng Bình Dương từ lâu cũng đã nổi
tiếng là vùng trái ngọt cây lành, với
những con sông nhỏ uốn khúc nên thơ mời gọi
khách du đô thị, với những vùng đất gợi nét
đẹp quê nghèo trong mùa nắng cháy, với những
rừng cao su ngút mắt, mùa lá rơi vàng ối cả
một vùng trời …
Ở đây nay vẫn còn lưu lại những
câu ca câu vè của dân gian, tuy mộc mạc
mà giàu cảm xúc, phác hoạ lên được
tâm tình và hình ảnh rất đặc trưng của đất
và người BD :
_Tay em bưng rổ kiếng bước lên xe kiếng chín từng
Đường về thăm phụ mẫu trước rừng, sau truông.
_ Ve kêu réo rắt đầu truông
Liệu bề thương được thương luôn cho tới già
Đất Bình Dương, đúng như tên gọi
của nó, đi đâu cũng thấy một màu xanh, mà
mọi thứ đều có vẻ bình bình, không
thái quá. Có núi, núi không
cao; có sông, sông chẳng rộng; có rừng, nhưng
rừng không sâu; có đồng xanh, đồng xanh không
bát ngát. Tiết trời, cũng lại như đất, mưa thuận
gió hoà. Suốt bao nhiêu năm không hề
có cảnh bảo giông, lụt lội. Mùa nắng, nắng
không cháy da; mùa mưa, mưa không thối đất.
Sinh sống giữa một vùng trời đất gió mưa như thế, ở
Bình Dương chẳng mấy ai phải chịu cảnh chết đói. Đất
lành, thì người cũng hiền, chuyện ấy có lẻ
là theo lý tự nhiên của Trời Đất.
_ Trèo lên cây gõ lót ổ chim sâu
Thấy em côi cút chăn trâu một mình
_ Trèo lên cây trắc bắt ổ tò vò
Thấy em còn nhỏ chăn bò anh thương
Người BD hiền lành nên được thiên
nhiên trời đất ưu đãi chăng mà xung quanh họ
thứ gì cũng có thể ăn và thứ gì hình
như cũng có vị thuốc. Đã vậy Trời đất lại ban cho
thức ăn ngập tràn môi trường họ sống, thậm chí đem
vào đến tận trong nhà, thềm nhà của họ. Muà
nào cũng nhiều thứ sẵn có ngoài vườn, ngoài
ruộng, ngoài bờ kinh, bờ sông. Tuỳ sở thích,
hoàn cảnh, tha hồ lưạ chọn mà chế biến thành nhữnh
món ăn ngon.
Trên vách là các loài bò
sát như thằn lằn, tắc kè; dưới nền đất là rắn mối,
dế cơm, cóc, bò cạp, chuột ; thềm nhà thì
có rau sam, càng cua, rau đắng, rau má…
Bước ra ngòai sân thì có
lá đinh lăng trong chậu kiểng, lá ớt hiểm non, lá
bông thọ…; hàng rào thì nào là
lá mồng tơi, lá bồ ngót, lá dang, dây
tơ hồng; ngòai vườn có lá lốp, rau dền, cây
lekima, cây chùm ruột, cây trứng cá, mọc sẵn
cứ trèo lên hái mà ăn; ngước mắt lên
thì có ve, chim sẻ, nhan, sóc, dơi luôn
ríu rít bay nhảy mời gọi trên cành…
Đồng ruộng đầy rắn, lươn, bù tọt, ếch, chim
cút, thỏ, chồn, và vô số đọt cây rừng cứ tha
hồ mà bứt như ngành ngạnh, vừng, lá dang,
lá sai…Ngoài ra còn có nhiều loại củ gắn
liền với kỷ niệm thời kháng chiến gian khổ mà oai
hùng của dân tộc như củ chuối, củ nần, củ chụp, củ
mài…
Trái rừng có trái
xiêm, trái cò ke, trái sai, trái
trường, trái nhãn lòng, trái bứa,
trái gùi ( Trái gùi Bến cát, nỗi
danh với bài ca của sọan gỉa Viễn Châu do danh ca
Út Trà Ôn hát)…;
Xuống bưng thì nào là
cá, ốc ( cứ dùng tay không vớt lên dưới ruộng
mà ăn khỏi cần phải bắt “ má ơi đừng đánh con đau,
để con bắt ốc hái rau má nhờ” ), cua đồng , gà
nước, cò, khúm núm…, trên bờ ruộng có
cải tàu bay, rau muống…; triền sông bờ suối thì
nào là rau mốp, bông lục bình, lá
sơn, lá chiếc, lá chạy, lá mặt trăng, kèo
nèo…
Sản vật ban tặng của thiên nhiên, ở BD đáng kể nhất
còn có nguồn động vật hoang dã. Xưa kia , trong
tỉnh có rất nhiều hổ, báo; nhưng từ khi đặt ra giải
thưởng cho người giết được hổ, báo và từ khi mở ra đường
lộ khắp ngả, thì hổ báo mất dần. “ Cọp rừng miền
Đông là tai hoạ lớn, ấy thế mà đồng bào ta
vẫn định cư. Theo con số sơ lược, khi Pháp đến, vùng Hốc
Môn cứ vài tuần ghi 4 người bị cọp vồ; vùng Cầu An
Hạ trong 3 tháng 12 người ; vùngThủ Dầu Một, trong
vài tháng, báo cáo 8 người chết. Và
hàng ngày, luôn luôn nghe chuyện cọp về
xóm, về chợ để gây rối. “ (Sơn Nam, SBDDC)
Thái tử Nga, sau này là
Sa Hoàng Ni-cô-lai II bị truất phế khoảng 1890 từng về
vùng Dĩ An săn bắn. Chuyện cọp lộng hành, đến chợ Thủ Dầu
Một từng được danh hào Victor Hugo kể lại trong tiểu thuyết “
Những người lao động miền biển ( Les travailleurs de la mer ). Trong
hồi ký của Grammont, trong khoảng thời gian ngắn đã
có 6 lính Pháp bị cọp tha xác bên
huyện lỵ. ( tức chợ Thủ ngày nay )
Thỏ rừng, sóc, cheo, nhím, chồn, lợn
lòi và nai thì còn nhiều. Tuy nhiên,
trâu rừng, voi và tê giác thì gần như
tuyệt chủng từ khi giao thông mở rộng. Những giống có
lông vũ như công, trĩ, đa đa, cu, gà rừng, chim
câu cũng có nhiều. Tại những vùng đầm lầy
thì có chim mỏ nhác, có mòng,
két, cò, bìm bịp, khúm núm... Khỉ
có nhiều giống khác nhau, có giống rất lớn. Đi
chơi trong rừng khá nguy hiểm vì vó nhiều rắn độc.
Về nguồn thủy sản, cá dưới nuớc thì
không có nhiều loại lắm, phổ biến nhất chỉ là
cá rô, cá lóc…và nhiều thứ cua đồng.
“Thịt các loại cua cá đó không ngon lắm,
song người dân giỏi chế biến với các đồ gia vị đặc biệt
nên tạo ra được những món ăn hảo hạng. “ (Nguyễn
Đình Đầu). Từ khi đắp đập lòng hồ Dầu Tiếng, lại
có thêm nguồn cá Lăng, nhiều con lớn hơn 15 kg,
thịt cá nấu lẩu canh chua là một món đặc sản ở
vùng này.
Trời cao đã ưu đãi thế, lại
còn ban cho đất đai nơi đây màu mỡ nên họ tha
hồ mà trồng trọt để quanh năm suốt tháng không
lúc nào mà thiếu lương thực. Nằm giữa hai con
sông Đồng Nai và Sài Gòn, lại có
nhiều mương suối cung cấp nước tưới tiêu nên thuận
lợi cho việc lập vườn làm ruộng, cung cấp nhiều nông sản
như lúa gạo, trái cây, trầu cau, rau cải…
Sức mạnh nông nghiệp ở BD không phải
là cây lúa, do ngoại trừ những vùng ven
sông hoặc những nơi gần suối, đất ở đây có vẻ
không thích hợp cho việc trồng lúa nước lắm, đất
đai không mầu mỡ như ở các tỉnh miền Tây có
lẻ do phù sa có pha qúa nhiều cát.
“ Bù lại, đất trồng cây ăn trái
lại rất tốt. Măng cụt trồng trong hai tổng Bình Chánh
và Bình Điền có tiếng ngon ngọt hơn khắp Nam Kỳ.
Người dân tỉnh cũng trồng được thứ trà hảo hạng và
trồng được rất nhiều thơm ( khóm hay dứa ). Có những
cánh đồng bát ngát trồng mía bên bờ
sông Sài Gòn và rạch Thị Tính,
mía đem lại mối lợi. Người ta cũng trồng thêm nhiều thứ:
đậu phọng, khoai mì, dưa, thuốc lá…” (Nguyễn Đình
Đầu, Địa chí Sông Bé)
Để có đủ lương thực cho dân trong tỉnh, cần phải nhập
lúa gạo, cá mắm với số lượng lớn từ đồng bằng sông
Cửu Long đem về.
Đất gò người ta trồng được nhiều loại
cây lương thực thích hợp hơn như các loại khoai
lang, khoai mì, khoai mỡ, khoai sọ, khoai môn, khoai từ,
bắp, các loại đậu như đậu phộng, đậu xanh, đậu đen, đậu đũa; hoa
mầu, đồ hàng bông như bầu bí, mướp, khổ qua, dưa
chuột, dưa gang, rau cải…Những thư ùnày thay phiên
nhau mà có quanh năm, cung cấp nguồn nguyên liệu
nấu nướng chính yếu cho mọi người.
Ngoài ra nói đến BD là
nói đến vườn trái cây trên các loại
đất khác nhau như vườn sầu riêng măng cụt, vườn
mít, vườn điều, vườn tre, tiêu, cà phê…
Như vậy về nông nghiệp, ở BD có ba nghề
chính là làm ruộng, làm vườn và
làm rẫy, trong đó làm rẫy là quan trọng hơn
cả.
BD vừa là đất gò, vừa có ruộng,
có rừng, nên nguồn sản vật địa phương vô cùng
phong phú, đa dạng. Ở đây có những sản
vật cao nguyên như thú hoang, trái rừng, vừa
có những đặc sản miền Tây như ca,ù tôm,
chuột, rắn…BD lại gần Sài Gòn, Biên Hòa
là hai trung tâm ăn uống lớn của cả nước nên
có điều kiện du nhập nhiều món ăn sang trọng của hai
thành phố này.
Do hoàn cảnh địa lý khá
đặc biệt như thế nên về ẩm thực, mới nhìn sơ qua, ở BD
dường như không có chi đặc biệt mà tương tự như
nhiều địa phương khác. Thế nhưng nếu chịu khảo sát kỹ
hơn, chúng ta sẽ phát hiện được rằng trên dặm
dài của lịch sử với bao nhiêu thăng trầm biến động, người
BD, sinh sống trên một vùng đất mới với những điều kiện
địa lý lịch sử riêng biệt, đã có nhiều
sáng tạo, đóng góp vào sự phong phú
, đa dạng của nền ẩm thực Việt Nam nói chung.