Ẩm Thực
Bình Dương
HEO NƯỚNG
Tân Bình - Dĩ An
NGUYỄN HIẾU HỌC
Những năm gần đây , tại chợ Bình Trị xưa, nay là
chợ Tân Bình, dân địa phương còn gọi
là Chợ
Chùa, thuộc xã Tân Bình, cách Thị
Trấn
Dĩ An chừng 3 ki-lô-mét, nổi lên nhiều tiệm
bán
món heo nướng có tiếng là ngon và
ngày
càng thu hút được nhiều khách hàng
Ở đây, người ta gọi là món heo nướng, chứ
không gọi là heo quay. Có thể đó là
tên gọi
quen miệng. Nhưng nếu quan sát kỹ cách nướng heo,
rõ
ràng đây quả là nướng heo chứ không phải
là
quay heo. Vì thế gọi là heo nướng cũng hợp lý
và
dễ hiểu.
Heo dùng để nướng chỉ nhỏ độ vài ba ký lô,
sau khi được làm sạch, tẩm ướp các gia vị cần thiết theo
bí quyết riêng, con heo được căng thẳng ra trên hai
thanh sắt phẳng dẹp ( có hai thanh ngang để buộc chặt 4
chân heo). Khi nướng chỉ cần lật thân heo qua lại về
phía lưng hoặc phía
bụng trên lò than đỏ( chứ không quay quanh một trục
xuyên suốt con heo để nướng như heo quay). Nướng như thế,
không chỉ có phần da bên ngoài mà cả
phần thịt ở bụng bè ra cũng được tiếp xúc với lửa than,
nên toàn bộ con heo
đều chín vàng trông rất hấp dẫn.
Tuy heo dùng để nướng chỉ là loại heo nhỏ nhưng
không phải là heo sữa ( heo giống lúc còn
bú sữa )
mà một trăm phần trăm là giống heo mọi đã được
nuôi
ít ra cũng khá nhiều tháng tuổi. Nhờ vậy thịt heo
nướng
săn chắc, mùi vị thơm ngon và ít mỡ hơn các
loại
heo quay thông thường.
Điều ít ai ngờ rằng tuy không phải là chỗ sản xuất
chuyên nuôi heo mọi , nhưng đã trên 80, 90 năm
nay, đây chính là nơi đã cung ứng một số
lượng
đáng kể heo mọi sống cho món heo nướng nổi tiếng tại
nhiều
nhà hàng, tiệm ăn ở quanh vùng Dĩ An, Thủ Đức,
Biên
Hòa , Sài Gòn……
Cũng chính đây là vựa heo mọi của miền Đông
Nam Bộ, nên nghề heo nướng Tân Bình mới hình
thành và phát triển ( dù so với nghề
vựa heo lâu đời tại đây thì nghề này xuất
hiện muộn hơn nhiều).
Theo ông Tám Trạng ( Trương Văn Trạng ) năm nay đã
83 tuổi, một trong số chủ vựa heo kỳ cựu nhất ở đây, cho biết
nghề
mua bán heo vuông, heo mọi đã xuất hiện tại
Tân
Bình trên tám chín chục năm nay. Riêng
ông theo nghề này đã hơn nửa thế kỷ. Lúc đầu
ông nối nghiệp người chị là bà Trương Thị Xinh (nếu
còn sống cũng trên 110 tuổi ) Hồi đó chị
ông,
rồi đến ông phải đi thu mua heo quanh vùng bằng xe ngựa,
xe
bò đem về bán lại cho dân địa phương. Về sau khoảng
thời
gian trước 1975 các vựa heo tại đây tìm mua nguồn
heo
vuông, heo mọi ở các tỉnh miền Tây, nhiều nhất ở
vùng
Cai Lậy – Mỹ Tho. Đến sau 1975, các giống heo này ở miền
Tây
cạn dần vì dân chúng bắt đầu nuôi lọai heo
công
nghiệp, giống heo mau lớn, nặng ký lai giống ngoại hoặc nhập ở
nước
ngoài. Các vựa heo ở Tân Bình đi tìm
thu
mua heo mọi từ các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Nơi cung cấp nhiều
hơn
cả là từ Qủang Ngãi, Bình Định trở vào. Số
lượng
heo chuyển vào đây khá lớn, trung bình mỗi
đợt
cách vài ba ngày, có đến năm ba trăm con,
có
khi lên hàng ngàn con. Được biết hầu hết số heo nầy
cung
ứng cho nhu cầu heo nướng trong tỉnh và các nhà
hàng,
tiệm ăn vùng Biên Hòa, Sài gòn. Số
ít
còn lại được dân trong vùng mua để nuôi
hoặc
vựa heo nuôi dự trữ để giết thịt hay làm món heo
nướng
khi có nhu cầu.
Hiện nay con gái ông Trọng là bà Trương Thị
Hiếu thay ông quản lý vựa heo mọi ( thuộc loại lớn nhất
đồng
thời cũng là một lò heo nướng ở đây ).
Trở lại nghề heo nướng tại chợ Tân Bình, bà
Thái Trang Thanh, một trong số chủ tiệm heo nướng ở ngay chợ
Bình Trị
cho biết nghề heo nướng ở đây tuy đã có khá
lâu nhưng mới phát triển thành thương hiệu.
Vào thời gian sau này, chẳng hạn như hiệu heo nướng Trang
Thanh mới chừng mươi
năm nay. Nghề heo nướng hình thành ở một nơi không
mấy
thị tứ như ở đây là nhờ vào một số thuận lợi
riêng. Trước hết như đã nói ở trên, từ rất
lâu nơi đây đã là vựa thu mua, buôn
bán, và dự trữ
lọai heo mọi cho nhu cầu của các nhà hàng, tiệm
ăn.
Mặt khác các chủ vựa có thể học hỏi được kỹ thuật
nướng
heo chuyên nghiệp từ các đầu bếp nhà hàng
quen
thân qua việc giao tiếp mua bán heo sống. Thế là
nghề
sinh ra nghề, nghề dạy nghề.. dần dà kỹ thuật nướng heo của
các
chủ lò thêm tiến bộ và không thua kém
các
nhà hàng. Giá thành heo nướng thành
phẩm
tương đối rẻ vì có nguồn heo phong phú và
được
mua với giá hạ ( giá sĩ ). Lúc đầu, khi có
đám tiệc, cuộc vui, giỗ quảy các chủ tiệm chỉ tự nướng
heo để phục vụ
cho gia đình, bạn bè quen thân. Về sau nhiều người
biết
đến món ngon đặc biệt này, rồi họ đặt hàng. Từ
đó nghề heo nướng phát sinh và nổi tiếng ở
Tân Bình. Đó chính là trường hợp của
tiệm heo nướng “ Trang Thanh” ( và cũng là chung cho
sáu bảy lò nướng heo
ở đây mà đa số cũng là chủ chủ vựa bán heo
nướng lâu đời ở quanh vùng nầy).
Nhưng tại sao món heo nướng hình thành không
bao lâu nhưng nay lại cóthể thu hút được khá
đông khách hàng như thế?
Heo nướng ở đây khá ngon, trước hết là nhờ chất
lượng thịt của con heo mọi bao giờ cũng ngon hơn các loai heo
quay, heo
nướng khác, kể cả lọai heo sữa đắt tiền. Heo mọi dùng để
nướng
với trọng lượng nhỏ hoặc có thể chọn lựa cùng lúc
nhiều
con lớn nhỏ khác nhau. Nhờ kỹ thuật nướng giống như lối nướng
vĩ,
nướng lật trên mặt phẳng nên cả phần da với thịt đều
chín
tới như nhau, trông thật hấp dẫn. Đáng nói hơn cả
là nhờ bí quyết riêng, heo nướng Tân
Bình có thể để dùng trong cả ngày mà
vẫn giữ được độ giòn và mùi vị thơm ngon như khi
mới nướng. Một đặc điểm khác biệt là thịt heo mọi nướng
ít mỡ và săn chắc, thơm
ngon hơn loại heo nướng khác. Một khách hàng
thường
đặt loại heo nướng này cho biết ngòai các ưu điểm
vừa
nói trên còn có được sự đảm bảo an
toàn
về vệ sinh thực phẩm từ nguồn heo mọi cao hơn nhiều so với lọai heo sữa
và các lọai heo dùng để quay nướng khác.
Sau hết giá thành và sự tiện lợi cũng là
các yếu tố đáng kể góp phần làm cho
khách hàng dễ tiếp nhận món ăn nầy. Chẳng hạn một
con heo mọi nướng khỏang một vài ký vừa đủ cho một
bàn ăn hoặc cho một gia đình giá khoảng từ
100.000đ đến 150.000đ. Lần đầu, khách phải đến đặt hàng
tại chỗ. Khách quen có địa chỉ, chỉ cần gọi điện thọai,
đúng giờ hẹn chủ tiệm sẽ mang heo nướng đến tận nhà.
Ngòai các nhà hàng tiệm ăn, khách
đến đặt hàng ở đây khá đa dạng. Các cơ quan,
hội
đòan, đội bóng, nhóm bạn khi có liên
hoan,
họp mặt, chiêu đãi. Các chủ tiệm buôn
bán,
chủ xe, chủ phương tiện vận chuyển trong các dịp cúng
bái,
tạ lễ … Các gia đình trong ngày cúng giỗ,
lễ
tiệc hoặc thết đãi thâu nhận bạn bè. Họ vẫn thường
chọn
món ăn ưa chuộng, quen thuộc có vẻ sang trọng, ngon miệng
mà
không quá đắt lại hợp với túi tiền theo nhu cầu về
cân
lượng …
Đến nay dù chưa có thể gọi đây là món
đặc sản, độc đáo hoặc phổ biến hàng đầu nhưng heo nướng
Tân Bình quả là món ăn ngon đầy hấp dẫn
đã làm phong phú thêm cho làng ẩm
thực của người Bình Dương.
NEM LÁI THIÊU
NGUYỄN HIẾU HỌC
Chúng ta vẫn thường được nghe đến “nem” trong món “nem
công” “chả phụng” là những thức ăn ngon và sang
trọng của giới quyền quí, giàu có thời xưa. Nhưng
thực ra đã mấy
ai được thưởng thức món nem làm bằng thịt loại chim
quí hiếm này.
Trong ẩm thực từ xưa đến nay người ta chỉ nói đến thứ nem
làm bằng thịt động vật bốn chân như heo, dê … Ngay
như món nem quí mà các vị tiên nữ đem
thết đãi
cho hai chàng khách trần gian trong câu chuyện Lưu
Thần
– Nguyễn Triệu (ở thời Đông Hán vào khoảng đầu
Công nguyên) nhân đi hái thuốc vào dịp
tết Đoan ngọ, lạc lối đến động tiên, cũng là thứ nem
làm bằng thịt
sơn dương (loại dê núi – có lẽ nơi tiên cảnh
các bà tiên không nuôi được dê
nhà chăng ?).
Trước đó khá lâu, khoảng trên 600 năm, cũng ở
trên đất Trung Hoa vào thời Đông Châu,
sách Luận ngữ có nói đến việc thầy Khổng
Khâu mở trường dạy học nơi thôn dã, không nhận
học phí, nhưng có lệ học trò muốn đến thọ
giáo phải sắm đủ lễ nhập môn gồm
một vò rượu ngon và chục quả nem. Không biết loại
nem
đã có tuổi trên 2500 năm đó làm bằng
nguyên
liệu gì, nhưng xem ra món nem ấy cùng với thức
uống
bằng ruợu đã được vinh danh thành thứ ẩm thực dành
cho
lễ vật trang trọng từ xa xưa.
Theo các câu chuyện kể trên, người Trung Hoa
đã biết đến món “nem” rất sớm. Thế nhưng con cháu
họ, những Hoa kiều ở Việt Nam, nhất là ở phía Nam,
dù rất giỏi về
kinh doanh ăn uống, nhưng tuyệt nhiên họ không mặn
mà
gì với móm ăn khá hấp dẫn này ngay
trên
vùng đất vốn rất coi trọng và ưa chuộng các
món
nhậu lai rai cao cấp như thế !
Vì vậy có nhiều người vẫn tin rằng “nem” là
món ăn của người Việt Nam, ít ra món nem như hiện
nay là hoàn toàn do Việt Nam sáng tạo ra.
Họ đưa ra nhận xét về nghệ thuật chế biến món thịt trong
ẩm thực như sau : Người Hoa, người Việt đều dùng thịt để
làm thành nhiều món ăn ngon như thịt luộc, quay,
nướng, kho, hầm, chà bông, dồn
lạp xưởng .. Nhưng người Việt còn biết dùng thịt sống uớp
muối
và gia vị quết nhuyễn, gói trong lá thành
loại
nem chua. Còn người Hoa thì hình như không
biết
đến cách biến thịt theo kiểu này.
Không ai biết món nem đã xuất hiện tại Việt Nam từ
bao giờ nhưng hình ảnh chiếc nem đã có mặt trong
thi
thơ ngâm vịnh về cảnh hàng quán ven đường qua lại
của
các nho sĩ trước đây : “ lủng lẵng trên treo dăm
chiếc
nem” …
Đến thời nhà Nho Tản Đà, qua thơ ông “chiếc nem”,
“bầu rượu” đã trở thành món ẩm thực hấp dẫn đầy
mê
đắm :
“ Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mãi vui quên hết lời em dặn dò”.
Nhiều tác giả cho rằng “ Nem là một trong bốn món
tiêu chuẩn trong mâm cổ Việt Nam, cho dù là
cổ
nhỏ, cổ to, thiếu giò, nem, ninh, mọc .. vẫn chưa thể gọi
là
cổ đích thực”. Điều đó có thể đúng với
mâm
cổ đầy trang trọng thời xưa ở vùng quê miền Bắc, miền
Trung.
Ở phía Nam, nhất là hiện nay nem là món
ngon,
khoái khẩu chỉ để ăn chơi, để lai rai ăn nhậu với bạn bè
trong
tiệc vui, chớ ít ai dùng nem làm cổ để cúng
giỗ.
Có thể nói, từ lâu nem là đặc sản của Việt
Nam, rất quen thuộc và phổ biến ở Nam bộ. Sài Gòn
là nơi đô hội, qui tụ đủ món ăn của ba miền, kể cả
món
lạ của người nước ngoài. Dân sành ăn của
thành
phố trước đây vẫn thường cất công dã ngoại ra khỏi
nội
thị lên tận Thủ Đức, Lái Thiêu để thưởng thức
món
nem đặc sản này. Vì ở hai nơi đó có
các
loại nem ngon và nổi tiếng nhất ở miền Đông nam bộ, cũng
giống
như nem Lai Vung ở miền tây, nem An Cựu ở Huế, nem Ninh
Hòa,
nem bì Thanh Hóa của miền Trung.
Vào thời cực thịnh, nem Lái Thiêu còn nổi
tiếng hơn cả nem Thủ Đức, nem Lai Vung và cho tới nay vẫn
còn giữ được một số đặc điểm, ưu thế riêng mà
các loại nem nổi tiếng nơi khác không có
được.
Tiệm bán nem nổi tiếng của Thủ Dầu Một xưa và Bình
Dương hiện nay vẫn tọa lạc ở Ngã Năm Lái Thiêu từ
gần 100 năm nay. Chính tên huyện lỵ Lái Thiêu
(nay là
Thuận An) gắn liền với món nem ra đời tại đây làm
thành
thương hiệu “Nem Lái Thiêu”.
Người đầu tiên sáng lập ra thương hiệu này
là bà Hai Dư, vào những năm đầu thập niên
thứ hai của thế kỷ qua, đến nay đã truyền nghề qua đời thứ ba.
Con gái bà Dư là bà Nguyễn Thị Lời, sinh
1911 truyền nghề cho con gái là bà Trần Thị Phước,
sinh năm 1950, hiện là chủ nhân tiệm nem Lái
Thiêu. Được biết từ nhiều chục năm nay món đặc sản
này đã liên kết tiêu thụ tại tiệm bánh
bèo bì ở chợ Búng và một số quán ăn
trong tỉnh.
Nhiều người lớn tuổi vẫn còn nhớ vào thời đó
có một người bán hàng tiếp thị cho thương hiệu
này là một người khiếm thị nhưng khá linh hoạt
và ăn nói có duyên thường giong rủi
đó đây để giới thiệu món nem Lái Thiêu
với kháh mua ở các bến xe, tụ điểm dân cư trong
tỉnh. Cửa tiệm còn liên kết với chủ một
chiếc xe lam đều đặn chở nem đi bỏ mối ở nhiều nơi, đặc biệt chỗ
tiêu
thụ mạnh nhất là tiệm ăn Nam Kha ở Long Khánh.
Chính
từ địa điểm này mà nem Lái Thiêu được nhiều
nơi
biết đến.
Ngoài khách quen thuộc nhất là giới nghệ sĩ kịch
nghệ cải lương, có khá đông du khách, đặc
biệt vào mùa trái cây. Sau khi đi thăm vườn
sầu riêng,
măng cụt nổi tiếng ở đây, thế nào họ cũng mua về một
vài
hoặc dăm ba xâu nem Lái Thiêu.
Có một thực tế mà ai cũng cảm nhận được nhờ kinh tế
phát triển nhanh, sự giao lưu kể cả về giao lưu văn hóa
ẩm thực đã diễn ra mạnh mẽ nên danh mục, chất lượng
món ăn, thức uống
ngày càng trở nên phong phú. Vì thế
nhiều
món ăn nổi tiếng một thời nay đã đi dần vào
quên
lãng hoặc chỉ còn lại sự nuối tiếc về các hồi ức
của
một lớp người nào đó …
Thế nhưng, món nem Lái Thiêu chỉ là
món ăn chơi, tuy không phát triển theo chiều rộng,
nhưng vẫn có đủ ưu thế, nội lực để tồn tại gần 100 năm nay
và đã được biết đến như là món đặc sản của
vùng đất Lái Thiêu – Bình Dương.
Qua bao thách thức, thăng trầm cho đến nay nem Lái
Thiêu vẫn luôn giữ được đặc điểm về chất lượng mà
các thứ
nem cùng loại không có được.
Trước hết, cách chế biến sản xuất hầu như vẫn theo lối thủ
công truyền thống. Chẳng hạn như họ vẫn quết thịt bằng tay chứ
không dùng máy, dù có thể chậm hơn
nhưng chất lượng nem bảo đảm hơn. Ngoài ra đó còn
là thú vui nghề
nghiệp, trong thao tác thủ công quen thuộc của người thợ
lâu
năm trong nghề làm nem.
Về chất lượng, cửa tiệm luôn dùng loại thịt nạc tươi, ngon
và chiếm tỉ lệ rất cao trong nguyên liệu sử dụng so với
bì (da heo) và các chất phụ gia khác để
có được chiếc
nem ngon và không quá mềm. Điểm đặc biệt hơn cả
là
tuyệt đối không dùng hóa chất và phẩm
màu
để làm đẹp, tăng độ dai và kéo dài thời
gian
sử dụng. Vì thế nem Lái Thiêu chỉ sử dụng trong
vòng
3 ngày từ khi gói thành phẩm (muốn kéo
dài
hơn nữa thời gian sử dụng phải được bảo quản trong độ lạnh cần thiết).
Chủ
nhân cửa tiệm thành thật cho biết vì quyết
tâm
theo đúng các tiêu chí về vệ sinh an
toàn
thực phẩm, nên thương hiệu nem Lái Thiêu chủ yếu chỉ
phục
vụ cho khách hàng trong tỉnh vì nem không
tiện
để lâu và mang đi xa.
Thực khách như chúng ta chỉ có thể được biết một
cách sơ lược qui trình làm thành chiếc nem
như sau : Chọn thịt nạc đùi tươi ngon, không rữa nước
lóc bỏ hết gân mỡ,xắt lát to,lau khô rồi cho
vào cối quết nhuyễn. Cho vào đó lượng muối
rang,đường,bọt ngọt, gia vị thích
hợp. Phần bì ( da heo)lau sạch luộc vừa chín lấy ra rữa
lại
cho sạch để ráo, lạn mỏng,xắt thành sợi nhuyễn. Mỡ
gáy
luộc chín,lấy ra rữa lại để ráo củng xắt thành sợi
nho
ướp đường để mỡ được trong. Phi tỏi với mỡ cho tới vàng, vớt bỏ
xác tỏi, lấy mỡ nước để nguội.Thịt nhuyễn, da heo, mỡ xắt sợi,
mỡ nước cho vào thau trộn thật đều. Để sẳn lá vông,
lá chuối lau sạch để gói ruột nem và vỏ nem. Nắn
thịt nhuyễn thành miếng nem hình khối vuông, nhận
thêm vào hạt tiêu, một ít latù tỏi, ớt
rồi gói ruột nem bằng lá
vông( có nơi gói bằng lá ổi, lá
chùm
ruột ) để rút nước và dể lên men thơm. Vỏ bên
ngòai gói bằng lá chuối hột ( chuối mốc ) cột
hình chữ thập bằng dây lạt kết 10 chiếc thành
xâu nem ( ngày
nay có nơi cột bằng dây nylon ) treo ba ngày, nem
có thể dùng được.
Nói về sự xuất hiện và vai trò của nem trong ẩm
thực nói chung, nhất là trong hàng ngũ những
món
nhậu với rượu (được xếp vào loại hấp dẫn và rất “bắt mồi”
) có người đã đúc kết : “ không ngờ nem
đã
sống từ lâu, nem đã đi vào đời sống dân tộc,
nhảy
vào cung đình vua chúa, nằm giữa cái say …
cho
mãi về sau trên xứ sở Việt Nam” (Mai Khôi, Hương vị
quê
hương, Xb 1996 trang 73).
Và với Bình Dương, nem Lái Thiêu là
món ăn chơi đặc sản lâu đời, một thương hiệu không
thể không nhắc đến trong làng ẩm thực của Thủ Dầu Một
trước đây và của Bình Dương hiện nay …
MÓN ĂN PHỞ
TRONG ẨM THỰC CỦA BÌNH DƯƠNG
NGUYỄN HIẾU HỌC
Tuy không phải là món ăn đặc sản lâu đời của
đất Thủ Dầu Một xưa, nhưng hiện nay phở đã trở thành
món ăn khá phổ biến ở đây. Tô phở thường
là bửa điểm tâm sáng của phần đông người
Bình Dương. Số tiệm cũng như số thực khách ưa chuộng phở
dường như đang chiếm dần vị
trí ưu thế so với những món ăn sáng quen thuộc
có
từ trước. Nhất là ở các nơi có đông cư
dân
người miền Bắc, miền Trung đến đây làm việc, mưu sinh
và
lập nghiệp.
Điều đó cũng dễ hiểu vì ngày nay phở trở
thành món ăn Việt Nam khá phổ biến và nổi
tiếng cả trong
và ngòai nước. Cũng giống như cacù món ăn
đặc
sản tiêu biểu của từng vùng. Chẳng hạn món chả
giò,
hủ tiếu ở miền Nam; bún bò Huế, cao lâu – mì
Quảng ở miền Trung. Hoặc của từng địa phương như bánh bèo
bì, nem Lái Thiêu, gỏi măng cụt, trái sầu
riêng
của tỉnh Thủ Dầu Một – Bình Dương.
Trước đây ai cũng nghĩ rằng món phở Bắc chỉ mới có
mặt tại Bình Dương vào khỏang cuối thập kỹ 50 thế kỷ qua,
nhất là sau khi có đợt di dân tập trung của số
đông
đồng bào miền Bắc vào Nam trong những năm 1954 – 1955.
Theo một số vị lớn tuổi ở chợ Thủ dầu Một, vào khoãng năm
1955, có một chủ quán người Bắc từ Khu định cư Rạch Bắp
đến chợ Phú Cường ( nay là chợ Thủ Dầu Một ) mở một tiệm
phở ở bến
xe Bình Dương cũ ( nay nằm trước UBND phường Phú Cường ).
Nhưng
sau đó, hình như việc kinh doanh không mấy
thành công nên chủ quán quay về Sài
Gòn mở tiệm phở lấy tên là Tầu Thủy. Thương hiệu
này có lẽ bắt nguồn từ gợi ý cuả tên phở
Tàu Bay vốn có trước
đó ít lâu. Ý chừng như chủ tiệm “ Tàu
Bay”
muốn nói rằng: Tàu Bay tuy nhanh, dù đến trước
nhưng
“Tàu Thủy sẽ có bề thế, vững chải hơn”. Cũng nên
biết
thêm rằng làng phở ở Sài Gòn lúc bấy
giờ
chỉ có tô phở Tàu Bay là vẫn giữ được
cái phong cách mùi vị của thứ phở Bắc chính
thống hơn cả…
Chỉ cách nhau một con sông, nên hai vùng đất
Gia Định – Sài Gòn và Thủ Dầu Một – Bình
Dương
xưa nay vẫn có mối giao lưu gần gũi. Hẵn là trong
đó
có cảgiao lưu về văn hóa ẩm thực. Cho nên những
hiểu
biết chung quanh về ẩm thực ở vùng này sẽ có
ích
cho việc tìm hiểu vần đề tương tự ở vùng kia. Đó
là
lý tại sao khi nói về ẩm thực Bình Dương
thì
không thể không nhắc đến ẩm thực Sài Gòn,
chẳng
hạn nói về gốc gác các tiệm phở mang tên
thương
hiệu Tàu Bay tại Sài Gòn như vừa nhắc ở
trên,
chúng ta đã được nhà văn Tô Hòai cho
biết
rõ thêm một chút lai lịch: “Phở Tàu Bay ở
gốc
cây Thị, Hàng Gà ( Hà Nội )… Cái năm
di
cư vào Nam trong ấy ( Sài Gòn ), ông
Tàu
Bay mở cho mỗi bà vợ một quán phở cùng tên,
ba
cửa hàng, phở nào cũng phở Tàu Bay vậy” ( “
Chuyện
cũ Hà Nội” trong tuyển tập “ Những áng văn ẩm thực”, 2000
trang 333.
Cũng trong tác phẩm trên, nhà văn còn cho
biết về nguồn gốc tên gọi và cả sự chuyển hóa của
món ăn trên đất Hà Nội rồi sau đó trên
đất Sài Gòn như sau: “ Đầu tiên, bên
Quãng Đông
có món ăn “ Ngưu nhục phấn” ( thịt bò – trâu
+ bánh bột gạo). Sang đến đây thì “ Ngưu nhục phấn”
Hà Nội hoá thành “ phở” và phở ngon hơn
các
món gốc ở quê hương ( Trung Hoa). Phở thông thường
như
ta ăn bây giờ thoạt đầu chỉ bán ở Hà Nội. Trong
Sài
Gòn kia, cả thành phố chỉ có hai gánh phở ở
hẽm Eùt – Banh ( Espagne ) bán buổi sáng gọi
là
phở Bắc mà ngõ hẽm nào cũng có quán
hủ
tiếu, mì, hoành thánh. Từ năm 1954, nhiều người
Bắc
di cư vào, phở mới thành món quà
thông
dụng quen thuộc nhanh chóng ( Sđđ trang 331).
Nói về thời điểm xuất hiện các thương hiệu phở ở
HÀ Nội, tác giả Trần Phước Thuận trong bài viết “
Hủ tiếu và Phở” (sđđ trang 569) cũng đã khẳng định “ Năm
1918 có 2 quán phở đầu tiên ở phố Hàng Quạt
( nay là phố Lương Văn
Cang – Hà Nội ) và phố Hàng Đồng cũng ở Hà
Nội.
Đến 1930 phở đã tràn lan cả nước”.
Riêng về tên “phở”, có người cho rằng nó xuất
phát từ chữ “ feu” ( lửa ) trong tiếng Pháp. Họ giải
thích: Khi món phở chưa được an vị nơi các
nhà hàng, tiệm quán ở một vị trí cố định.
Phở còn lang thang xuôi ngược trên các
gánh phở lưu động, mang cả bếp lò để luôn giữ
nóng nồi nước lèo. Khách ăn Tây hay Việt
sính dùng chữ Tây, vẫn thường gọi theo đặc
điễm là gánh “ feu” ( gánh có lửa )
vá
chính từ gánh “ feu” – gánh “ phở” này
mà
chữ phở ra đời.
Nhưng cách giải thích chử “ phở” có nguồn gốc từ
một món ăn Tàu tương tự nói trên vẫn được
nhiều người tán đồng hơn. Chẳng hạn nhà văn giỏi tiếng
Việt và
sành về ẩm thực như Nguyễn Tuân cũng cho rằng: “ Người ta
bảo
chữ “ phở” là xuất xứ từ chữ “ ngưu nhục phấn”, và
ta
đã Việt Nam hóa chữ “ phấn” thành chữ “ phở” ( sđđ
trang
333 ). Ở miền Nam nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ, trong “ Tầm
Nguyên
Từ Điển”, 1993 cũng giải thích như thế: Từ “ Ngưu nhục
phần”
đọc theo âm Quãng Đông là “ ngầu yục
fánh”,
chữ : fánh” trong “ ngầu yục fánh” âm Việt đọc
thành phở ( sđđ trang 694 ).
Còn hành trình phát triển về phía
Nam, phở Bắc vào Sài Gòn trước rồi từ trung
tâm đầu mối giao lưu này của miền Nam phở mới lan tỏa ra
nhiều địa phương
khác, trong đó có cả Thủ Dầu Một Bình Dương.
Nhưng có một phát hiện khá thú vị, đặc biệt
là đối với người Bình Dương. Đó là con
đường phát
triển của phở từ miền Bắc vào phía Nam không đi
theo
hướng giống như nhiều tác giả đã nói cũng
như
lâu nay chúng ta vẫn tưởng.
Theo một số vị cao niên từng sống ở Lái Thiêu –
trong khõang thời gian các thập niên 30, 40 thế kỷ
qua cũng như theo sự tìm hiểu của nhà văn Sơn Nam, phở
Bắc xuất hiện ở Lái Thiêu trước 1945 và đã
có mặt ở
đây trước cả Sài Gòn. Nhà văn Sơn Nam cho
biết
món ăn này đầu tiên được hình thành
từ
nhóm đồng bào quê miền Bắc đến định cư tại
vùng
Búng – Hưng Định tỉnh Thủ Dầu Một dưới thời Pháp thuộc
và
cũng có thể sớm hơn, dưới thời nhà Nguyễn. Chúng
tôi
từng được nghe ý kiến trên đây từ trước 1975, sau
này
trong “ Địa chí Sông Bé” ( xuất bản 1991 )
nhà
văn cũng nhắc lại: “ Theo ký ức của người trong cuộc nay
còn
sống thì nghề nấu phở bò ở Sài Gòn
đã
phát sinh từ chợ Lái Thiêu. Vài người khi
trở
về thăm quê xứ khi vào thử nấu phở, được người Bắc ưa
thích,
sau đó người địa phương, người Hoa cũng ưa chuộng vì lạ
miệng
bổ khỏe…”. Rồi ông cho biết thêm một vài đặc điểm
của
phở Bắc “ chính gốc” tại Lái Thiêu trước 1945; về
những
xe phở “ lịch sử” đã góp công vào công
cuộc chống Pháp tại địa phương nầy: “ Phở hồi trước 1945 ở
Lái
Thiêu nấu theo công thức “ chính gốc”: nước
có
cà chua, tí gừng, không dùng rau. Khi
cách
mạng tháng Tám vừa nổi lên, ở Lái
Thiêu
có tổ chức 4 xe phở lấy phúc lợi nuôi quân du
kích
chống Pháp ( sđđ trang 346 ).
Nếu ký ức của các vị cao niên nói trên
và sự tìm hiểu của Sơn Nam là chính
xác, thì có thể nói rằng vùng đất
Lái Thiêu Thủ Dấu Một là nơi đầu tiên tiếp
nhận và phổ biến món phở Bắc xuống vùng Sài
Gòn – Gia Định và từ
đây món ăn này đã lan ra khắp xứ Nam Kỳ.
Những thông tin và phát hiện trên đây
đã được củng cố khi được biết một số tác giả từng sống
lâu ở đây và cũng biết nhiều về Thành Phố
Sài Gòn, đã cho biết thêm tư liệu. Đó
là các cột mốc thời
điểm xuất hiện cũng như chính thức trở thành thương hiệu
của
món phở Bắc tại thành phố nầy. Ông Phan Nghị cho
rằng
phở chỉ mới xuất hiện ở Sài Gòn vào những năm
1951,
1952.
Trong hồi ký của mình, nhà học giả lão
thành Vương Hồng Sễn có nhắc đến thú ăn phở của
ông vào các thời tiệm phở còn rất hiếm ở
thành phố. Ông viết: “ Nay có ít câu
về tô phở … lối những năm chung quanh 1950, vợ chồng tôi
và con ngồi xích lô máy từ chợ Bà
Chiểu, xuống Sài Gòn, nếm ba tô phở đường Turc (
Tuyệt – nay thuộc khu vực đường Đồng Khởi ), rồi trở về
cũng bằng xích lô”… Chắc là khoảng 1950 Gia Định
chưa
có tiệm phở nên cụ Vương mới phải đi ăn xa như thế”.
Tìm
hiểu về sự xuất hiện phở Bắc ở phía Nam, gần đây một
tác
giả cũng đưa thêm thông tin: “ Phở đồn điền khởi nghiệp ở
Lái Thiêu. Nói món phở Bắc tại miền Nam xưa
vì thấy món phở Bắc bán tại Lái Thiêu
tỉnh Thủ Dầu Một ( Nam Kỳ ) nay là tỉnh Bình Dương
trên nửa thế kỷ nay” (*). Rồi tác giả không
quên nói về sự biến đổi
của tô phở Bắc trong quá trình thâm nhập
vào miền Nam: “ Như trên đã viết về tô phở
miền Nam cùng sự thêm thắt trang hòang tô phở
từ cái dáng vẻ chân phương giản dị nguyên sơ
của nó ( xuất hiện giữa thập niên 40 trước tại Lái
Thiêu ) đến sự đa tạp bởi
đòi hỏi của người đời – thập niên 50, 60 tại Sài
Gòn”.
Gần đây, theo lời chỉ dẫn của mấy cụ cao tuổi, am tường về ẩm
thực xưa của địa phương, chúng tôi lại đến vùng
Búng – Lái Thiêu để tìm hiểu thêm vấn
đề nói
trên. Địa chỉ chúng tôi quan tâm trước
tiên
là tiệm phở cây Bàng có lâu đời ở ngay
chợ
cũ Lái Thiêu từ trên nửa thế kỷ nay. Được biết
đây
là tiệm phở Bắc lâu đời và nổi tiếng nhất ở
Lái
Thiêu và có lẽ của cả tỉnh Thủ Dầu Một trong
khoãng
thời gian từ cuối thập kỷ 30 đến đầu thập kỷ 50 thế kỹ qua. Tiệm phở
Cây
Bàng giờ đây vẫn còn ở địa điểm cũ ngay tại chợ cũ
Lái
Thiêu ( dù cây Bàng to lớn bên
cạnh
tiệm nay không còn nữa ). Tuy con cháu người chủ
quán
vẫn tiếp tục duy trì nghề nấu phở lâu năm của gia
đình,
nhưng hiện nay qui mô buôn bán thu nhỏ hơn trước kia
khá
nhiều. Có nhiều lý do khiến cho việc buôn
bán
của quán phải thu hẹp, nhưng khó khăn chính
là
do vị trí của ngôi quán xưa nay đã nằm
sâu
trong lòng chợ bởi phạm vi chợ mở rộng. Vì thế rất trở
ngại
cho việc đi lại và chỗ để xe cho thực khách. Nên
quán
chỉ có thể bán cho một số ít khách hạn hẹp
quanh
chợ.
Theo lời kể của chủ quán Vũ Như Bản ( năm nay gần 60 tuổi ),
ông là con trai thứ tư của vị chủ quán ngày
xưa, cụ Vũ
Văn Búp, nay đã trên 94 tuổi. Được biết ông
Búp quê ở Phố Hàng Bột, Hà Nội đến lập
nghiệp ở Lái Thiêu từ khi còn nhỏ. Vào thời
Cách Mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia đội
du kích địa phương. Vào năm 1948 ông sang lại tiệm
phở Cây Bàng từ một chủ tiệm người Bắc tên là
Lan. Chính ông Liên chồng bà Lan đã
lập tiệm này vào cuối thập niên 30. Khi chồng
bà Lan mất, bà đã sang tiệm lại cho ông
Búp như đã nói trên. Vào lúc
bấy giờ quán phở Cây Bàng rất nổi tiếng, thu
hút
được nhiều khách kể cả khách Sài Gòn. Nhất
là giới văn nghệ sĩ diễn viên tuồng cải lương vẫn thường
lên đây thưởng thức món phở Bắc “ lạ miệng và
bổ khỏe” này.
Hỏi về đặc điểm của tô phở thời ấy của tiệm phở. Những điều chủ
tiệm
cho biết gần giống như mô tả của nhà văn Sơn Nam
nói
về tô phở Bắc “ chính gốc” vào thời kỳ đầu
tiên
này ở phía Nam.
Sỡ dĩ tô phở có được mùi vị thơm ngon đặc biệt chủ
yếu nhờ ở cách nấu và các nguyên liệu để nấu
nồi nước lèo. Vẫn chỉ dùng xương, thịt bò để nấu
nước
lèo và luôn luôn chú ý đến việc
không ngừng vớt bỏ bọt từ nồi nước lèo. Bỏ thêm
vào
đó các phụ gia như gừng củ, cà chua, củ cải trắng,
đôi
khi bỏ vào ít rau răm. Đặc biệt không thể thiếu
gói
ngũ vị hương, đúng cân lượng, thành phần công
thức
gia truyền của chủ tiệm.
Ở vùng Lái Thiêu, và Búng
ngòai quán Cây Bàng còn có một
số tiệm phở tương đối lâu năm và có tên
tuổi như phở Mỹ Lan ở chợ mới Lái Thiêu, phở Cây
Xoài ở Búng. Vào khoảng năm 1955 khi ngôi
trường Trịnh Hòai Đức được thành lập ( đây
là trường trung học công lập đầu tiên trong tỉnh )
người dân quanh vùng, nhất là thầy trò của
trường trung học nói trên, không
ai không biết đến quán phở Cây Xoài ( nay ở
số
312 đường Thủ Khoa Huân, Thạnh Hòa A ). Chủ tiệm là
ông Nguyễn văn Tư sinh năm 1913, quê ở Hưng Yên
vào
Nam định lập nghiệp ở vùng đồn điền cao su TDM, đến 1955
ông
mở quán phở cây Xoài ( trước quán có
một
Cây Xoài lớn nay đã đốn )nói trên. Nay
người con gái ông là bà Nguyễn Thị
Thìn
thay ông làm chủ tiệm, vẫn thu hút được nhiều
khách
hàng.
Ở chợ Thủ Dầu Một có khá nhiều quán ăn,
nhưng hầu hết đều là tiệm hủ tiếu, mì, hoành
thánh
do người Hoa đứng bán. Đến đầu những năm 50, nhất là sau
năm
1954 mới chính thức có một số tiệm phở. Chẳng hạn như
tiệm
phở ở bến xe Bình Dương cũ sau dời về Sài Gòn lấy
thương
hiệu phở Tàu Thủy khá nổi tiếng như đã nói
trên. Ngoài ra còn có tiệm phở Huỳnh Mai ở
khu chợ Thủ Dầu Một; phở Minh Yến gần ngã tư nhà thờ
Phú Cường…
Đến nay hầu như ở các thị trấn, tụ điểm cư dân nào
trong tỉnh đều có quán phở, tập trung nhiều nhất ở Thị
Xã
Thủ Dầu Một, các thị trấn: Dĩ An, Lái Thiêu, Bến
Cát, Tân Uyên … Trong số đó có
không ít tiệm phở nổi tiếng, hàng ngày thu
hút nhiều lượt thực khách đến ăn như các tiệm phở:
999, phở Phụng, Hải Ký, phở Miếu Tử Trận, phở Hồng, phở Tứ, phở
Hùynh Hoa …
Nói đến chuyện phở, nhiều người đặt ra câu hỏi: tô
phở Bình Dương hiện nay so với tô phở Bắc chính
hiệu hay
tô phở đầu tiên có mặt tại Lái Thiêu
có
gì khác biệt?
Trả lời cho thật rõ ràng câu hỏi này
không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn như việc
xác định thế nào là tô phở Bắc chính
hiệu, đâu là tô phở cải biến của miền Nam hoặc của
riêng Bình Dương, quả là không đơn giản.
Cũng như phần lớn các món ăn khác, người
Bình Dương ( trong đó có cả người Bình
Dương gốc miền Bắc ) đã tỏ rõ khả năng tiếp nhận,
thích ứng và
sáng tạo biến cải món phở Bắc thành món ăn
hợp
với khẩu vị, thổ sản và phong cách của người địa phương.
Tuy
nhiên trong một chừng mực nào đó chúng ta
cũng
có thể cảm nhận đôi điều về sự khác biệt ấy.
Trước hết sự khác biệt dễ nhận thấy là cách chế
biến và hình thức của bánh phở. Ơû đây
bánh phở cũng gần giống như bánh hủ tiếu, được chế biến
từ một lọai gạo đặc sản giúp cho bánh được thơm ngon,
không cứng mà cũng không bở. So với
bánh phở của tô phở Bắc chính hiệu thì
bánh phở ở đâøy có độ dày và
được cắt nhỏ bản hơn. Nước lèo phở Nam Bộ
hoặc Bình Dương có màu đậm vàng đục hơn
và
thường được bỏ thêm nhiều gia vị tùy theo công thức,
bí quyết riêng của từng chủ tiệm phở. Cho nên
tô phở có thể có nhiều mùi vị khẩu vị
riêng tùy theo từng thương hiệu phở. Trong nồi nước
lèo của phở Bắc chính hiệu
chủ yếu nấu bằng xương bò, ít có chất phụ gia
và
rất chú trọng trong việc vớt sạch bọt từ nồi nước xương,
nên
thường có chung mùi vị đặc trưng của xương
và
thịt bò. Tô phở Bắc cũng không hoặc ít
dùng
nhiều gia vị, rau giá ăn kèm … Trong khi tô phở
miền
Nam, (cụ thể là tô phở Bình Dương ) luôn
có
đủ thứ gia vị, rau ăn kèm thật phong phú. Ngoài
các
loại tương đỏ, tương nâu, ớt chanh, hành tỏi còn đủ
loại
rau thơm: ngò, quế, rau ôm, đặc biệt không thể thiếu
đĩa
giá sống, giá trụng … Thực khách có thể
dùng
thỏa thích theo nhu cầu của mình.
Về giờ giấc bán và ăn phở cũng có sự khác
biệt. Hầu như người Bình Dương chỉ ăn món phở vào
buổi sáng; ít ai hoặc hiếm khi họ ăn vào buổi
chiều, buổi tối hoặc buổi ăn khuya giống các thưcù ăn
khuya quen thuộc khác như cháo, hủ tiếu, hoành
thánh vẫn thường bán về
đêm.
Với người trung lưu, công nhân viên chức, tô
phở thường là bữa ăn sáng ngon miệng thích hợp vừa
bụng. Đối với người lao động chỉ cần ăn kèm thêm đôi
mẫu bánh mì cùng tô phở nóng
thì đó là một bữa ăn chính no đủ để
có thể lao động cả một buổi sáng dài.
Giờ giấc và phong cách ăn phở đó quả không
giống như nhận xét của nhà văn Nguyễn Tuân về phở
trong cách ẩm thực của người miền Bắc trước đây: “ Phở ăn
bất cứ giờ nào … sớm, trưa, chiều, khuya lúc nào
ăn cũng được ( Phở sđđ trang 331 ). Theo ông, phở là
món ăn chơi, luôn hấp
dẫn nên lúc nào ăn cũng thấy thích hợp.
Thế nhưng, tại Bình Dương chỉ trừ một vài quán
chuyên bán đồ ăn về khuya, hầu hết tiệm phở chỉ mở cửa
bán vào buổi sáng. Giờ cao điểm đông
khách nhất là quãng thời gian trước giờ làm
việc và thường nghỉ bán trước buổi cơm trưa
Như thế, chỉ chưa đầy một thế kỷ, món phở ( có thể
là họ hàng gần xa với món “ ngưu nhục phấn”
tương tự nào đó ở phía Nam nước Trung Hoa )
đã hình thành tại Hà Nội ( hoặc Nam Định )
nên được gọi là phở Bắc. Đến nay có nhiều cơ sở để
tin rằng món ăn trên đã du nhập trước tiên
vào đất Thủ Dầu Một vào khoãng sáu bảy chục
năm trước đây. Hay nói đúng hơn,
người ở địa phương nầy đã tiếp nhận món phở Bắc một
cách
tình cờ và đã sáng tạo biến cải
thích
ứng thành một trong số những món ăn phổ biến hấp dẫn nhất
trong
ẩm thực của người Bình Dương hiện nay.
Ngày nay, ít ai còn bận tâm quá nhiều
về sự khác biệt giữa các tô phở Bắc ( chính
thống ), phở Sài Gòn, phở Bình Dương. Điều người
ăn quan
tâm hơn cả là được thưởng thức một tô phở ngon, hợp
khẩu
vị, nhiều dinh dưỡng. Cũng chẳng ai quá nặng lòng
hoài
cổ phải nhất thiết bảo vệ giữ gìn đến cùng nội dung
và
hình thức của một tô phở được mệnh danh là
chính
hiệu nguyên thủy của thời phở mới hình thành.
Nhiều người nghĩ rằng sức sống và sự hấp dẫn của tô phở
Việt Nam là chính ở sự đa dạng, phong phú trong
chất liệu trong nghệ thuật nấu phở và khả năng đáp ứng
khẩu vị nhiều
người, nhiều giới trong cả nước. Nhờ vậy, phở mới trở thành
món
ăn tiêu biểu cho người Việt Nam. Hơn thế, phở còn vựơt
ranh
giới quốc gia và trong một chừng mực nào đó
đã
chinh phục được thực khách và giới ẩm thực nước
ngoài.
Câu chuyện về phở, nhất là trong ẩm thực của VN cũng như
trong ẩm thực của Bình Dương hẳn là còn bao điều
đáng nói, đáng bàn. Nhưng ở đây,
chúng ta tạm bằng lòng về câu trả lời cho câu
hỏi đâu là sức sống, sức mạnh của phở và tại sao
phở lại có vị trí tôn vinh tiêu biểu trong ẩm
thực Việt Nam như thế.
Sức mạnh ưu thế của phở trong phạm vi quốc gia thì ai cũng
có thể biết, còn sự nhìn nhận đánh
giá về món ăn tiêu biểu nầy của VN ở nước
ngoài ra sao?
Như chúng ta đã biết vì nhiều nguyên do,
ngày nay người Việt chúng ta có mặt hầu hết
các châu lục ( Thống kê 5/2004 cho biết có
2.767.164 người Việt Nam
ở 89 quốc gia trên thế giới ). Đến đâu họ cũng mang theo
một
ít hương vị quê hương của mình, trong đó
có
ẩm thực truyền thống. Và món phở trở thành
món
ăn tiêu biểu cho người Việt Nam, nhất là ở nước
ngoài.
Một ví dụ khá tiêu biểu cho sự gắn kết giữa
món phở truyền thống và người Việt ở nước ngoài.
Đó là trường hợp của nhà doanh nhân Việt
Kiều Hùynh Trung
Tấn ( ALain Tấn ) chủ nhân nhiều nhà hàng lớn như:
Le
MéKong, L’ etoile, Viet Nam House ( nơi Tổng Thống George Bush
chọn
làm nơi tiếp khách 1995 ), Blue Ginger, Lemon Grass … Sau
đó vì nhiều duyên nợ với món phở, ông
Tấn
về Việt Nam mở tiệm phở “ Phở năm 2000” ở số 64 đường Võ Thị
Sáu,
Q1. Tổng thống Bill Clinton nhân chuyến viếng thăm Việt Nam đầu
tiên
đã đến đây thưởng thức một lúc 2 tô phở.
Ngoài
lý do có thể vì nghệ thuật ngoại giao, hẳn
là
phở Việt Nam cũng đã hấp dẫn được vị Tổng thốáng Hoa Kỳ
này.
Chẳng phải thế, ông John Hinterberger một cây bút
phê bình nổi tiếng của tờ Times Restaurant đã
thú
nhận mình đã “kết” món phở Việt Nam. Khi ông
dẫn
lại ý của nhà âm thực học Jean Antheline Brillan –
Savarin: “ Người nào ăn nấy”. John đề nghị giờ đây
câu nói nầy nên đổi lại là: “ Hãy cho
tôi biết bạn ăn
gì? tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai”. Và
ông
đã khẳng định mình: “ I’m a phơ” ( Sài Gòn
tiếp
thị Xuân 2001 ).
Cũng nhờ vào đặc điểm đa dạng và khả năng thích
ứng mà món phở đã dễ dàng tiếp nhận những
ứng dụng tiến bộ khoa họcvề vệ sinh thực phẩm trong việc “ hiện đại
hóa” theo yêu cầu mới của ẩm thực nói chung
và phở nói
riêng.
Chẳng hạn ở tiệm “ Phở 2000” nói trên, nước nấu phở được
xử lý rất kỷ bằng các thiết bị lọc khử mùi bằng
than họat tính, lọc trong qua tia cực tím trước khi cho
vào nấu. Nguồn xương, thịt được chọn từ loại bò ưu hạng
qua các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn một cách
nghiêm ngặt. Đặc biệt
ở đây không dùng bột ngọt, nhưng không thể
thiếu
các hương liệu đặc biệt tạo nên mùi vị hấp dẫn của
phở.
Đó là các loại gia vị các hương liệu chắt
lọc
qua các nền văn hóa lâu đời của Trung Hoa, Ấn Độ,
Trung
Cận Đông như Đinh hương đại hồi, tiểu hồi, thảo quả, hột
ngò,
quế …
Trên đây là chuyện phở của thời hiện đại, thời giao
lưu, toàn cầu hóa. Thật ra chẳng phải đến bây giờ
người
ta mới nhận ra được cái thế mạnh của phở về nhiều mặt. Trong
đó trước hết phải kể đến các yếu tố như ngon rẻ, bổ
dưỡng, lại vừa đáp ứng được nhu cầu, khẩu vị của nhiều người,
nhiều giới trong nước. Ngay từ sáu bảy chục năm về trước,
nhà thơ trào phúng châm biếm nổi tiếng
Tú Mơ cũng đã dành hẳn một bài “ Tụng Ca”
trang trọng để tôn vinh món phở của dân tộc. Dưới
đây là phần trích dẫn:
“ Phở Đức Tụng”
Trong các món ăn “ quân tử vi”
Phở là món đáng quí trên đời
Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mười
Mà đủ vị: ngọt, bùi, béo, bổ
Này bánh, này thịt, này nước dùng
sao nhánh mỡ
Ngọn rau thơm, hành củ thái trên
Nước mắm, hồ tiêu cùng ớt dấm điểm thêm
Khói nghi ngút đưa lên thơm điếc mũi…
Như xúc động tới ruột, gan phèo phổi..
Dẫu sơn hào hải vị khôn bì
Xơi một bát, thường khi chưa thích miệng
Kẻ phú quí cho chí người bần tiện
Hỏi ai là đã nếm, chẳng ưa ..!?
( Tú Mỡ toàn tập, T1, trang 128 )
Trên đây, nhà thơ Tú Mỡ đã “tụng ca”
cái đặc sắc và cái tiện lợi bình dân
của phở về ẩm thực. Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại
muốn tuôn vinh về nét đẹp và sức mạnh về văn
hóa của phở Việt Nam.
Vào thời điểm món phở chưa có được sự nhìn
nhận
đánh giá của người nước ngoài như hiện nay.
Nhà
văn Nguyễn Tuân, trong bút ký về phở, đã
nhiệt
tình cổ vũ cho việc quảng bá văn hóa cho phở Việt
Nam.
Ông đã từng ví von phở như một tiếng nói,
hơn
thế tiếng hát của văn hóa Việt Nam. Ông gợi
lên
một câu hỏi về phở: rằng người nước ngoài “ Sẽ có
cảm
xúc gì về phở Việt Nam”. Rồi ông đưa ra một đề xuất
bằng
thứ ngôn ngữ ẩn dụ đầy biểu cảm: “ Bài ca của mình
họ
đã nghe rồi, đất nước ta họ đã thấy rồi! Nhưng còn
phở,
phải cho bạn thấy phở nữa, bởi phở cũng là một tiếng hát
yêu
đời của tất cả tấm lòng người Việt Nam chân chính
và
bình dị ( Phở – sđđ trang 333 ).
Ngày nay, nhờ vào trí tuệ và những nổ lực
không ngừng cũng như may mắn có được một số thuận lợi về “
thiên
thời, địa lợi”, Bình Dương đang có nhiều cơ hội mở ra sự
giao
lưu mạnh mẽ không chỉ trong nước mà còn với nhiều
quốc
gia bạn bè gần xa …
Mặt khác, như trên đã nói có nhiều cơ
sở để tin rằng đây là một trong vài nơi ( nếu
không muốn nói là duy nhất ) đầu tiên ở
phía Nam đã tiếp nhận món phở Bắc và
đã làm món phở nầy thêm khởi sắc,
phát triển góp phần làm phong phú chất
lượng ẩm thực của Bình Dương, của khu vực và của cả nước.
Theo chiều hướng đó, trong phạm vi văn hóa ẩm thực,
nói theo ngôn ngữ Nguyễn Tuân, người Bình
Dương tin tưởng
rằng trong bản hòa ca “ Tiếng hát yêu đời của người
Việt
Nam bình dị” cất lên từ “ văn hóa phở” – mà
nhà văn đã nhắc đến ở trên – Hẳn là
không thể thiếu cái tiết điệu đậm đà, khởi sắc của
tiếng hát Bình Dương …
Đọc tiếp phần ba