Dấu
xưa xe ngựa... đất Thủ - Bình Dương...
HIẾU HỌC – HOÀNG ANH
(Chiếc xe thổ mộ Bình Dương)
Cùng nhắc đến hình ảnh chiếc xe ngựa, nhưng trong
câu thơ đầy xúc cảm của Bà Huyện Thanh Quan: “Dấu
xưa của xe ngựa hồn thu thảo” thì mênh mông một nỗi
u hoài muôn thuở của con người trước sự phế hưng biến đổi
cùng năm tháng: “Nền cũ lâu đài bóng
tịch dương”. Còn “dấu xưa xe ngựa...” sắp nói sau
đây là nỗi buồn man mác, khi nhớ về chiếc xe thổ mộ
(xe ngựa) cụ thể, một hình ảnh quen thuộc đã gắn liền với
cuộc sống của cư dân Bình Dương từ những năm tháng
xa xưa cho đến tận thời gian gần đây. Thế mà hiện nay
đã gần như vắng bóng trên đường phố và cả
đường làng ở vùng nông thôn Bình Dương.
Trở lại thời mới khai khẩn miền đất mới phương Nam, đất Thủ Dầu Một
là một trong những cái nôi hình thành
chiếc xe thổ mộ ở Nam bộ. Trong từ điển tiếng Việt miền Nam, học giả
Vương Hồng Sển giải thích: “Xe thổ mộ là chiếc xe do một
ngựa kéo dùng chở hàng hóa cho khách
bộ hành vùng ngoại ô Sài Gòn, Chợ
Lớn, Lái Thiêu” (sđd trang 643). Có nhiều giải
thích vì sao xe ngựa được gọi là xe thổ mộ. Về
nguồn gốc, địa chí thành phố Hồ Chí Minh cho rằng,
xe ngựa của Nam bộ là phỏng theo mô hình kiểu xe
song mã của Âu châu. Các nhà văn Sơn
Nam, Nguyễn Nguyên giải thích “thổ mộ” bắt nguồn từ hai
chữ “thảo mã” nghĩa là loại xe dùng ngựa để chở cỏ
của người Trung Quốc. Người khác cho rằng, trước đây việc
chở quan tài để chôn xa phải dùng đến xe ngựa đưa
đến chỗ đất (thổ) mồ mả (mộ), nên quen gọi xe ngựa là xe
thổ mộ (theo ông Hoàng Anh SGGP số 375/1998). Nhưng số
đông tác giả cho rằng, vì mui chiếc xe có
hình khum khum mu rùa, giống như nấm mộ (mả đất)
nên xe được gọi là xe thổ mộ. Ngoài ra có
nhiều cụ già Bình Dương lại khẳng định rằng, thổ mộ
là tên gọi xe Thủ Dầu Một do nói nhanh, nói
gọn của người Nam bộ mà thành. Cách giải
thích trên, nhất là giải thích xe thổ mộ
là tên để chỉ xe ngựa Thủ Dầu Một còn phải được
tìm hiểu thêm. Nhưng rõ ràng, đất Thủ Dầu
Một - Bình Dương có nhiều mối quan hệ trong việc
hình thành, sáng tạo cũng như việc sớm sử dụng một
cách rộng rãi và lâu dài đối với
chiếc xe thổ mộ này.
Từ cuối thế kỷ XIX, đất Thủ Dầu Một là nơi nghề thủ công
phát triển mạnh, kinh tế giao thông hàng hóa
rộng khắp nhờ vào nguồn nhân lực, thợ lành nghề
đông đảo, nguyên vật liệu gỗ rừng, khoáng sản đặc
dụng, dồi dào, lại ở vị trí thuận lợi cho việc giao
thương đường thủy, đường bộ, tạo nên một quang cảnh tấp nập
“trên bến dưới thuyền”, nhu cầu đi lại, chuyên chở
hàng hóa rất lớn. Đường bộ, ngoài đôi
chân, phương tiện giao thông gần như duy nhất là xe
ngựa, vì thế nghề chế tác xe thổ mộ và nghề
chuyên chở bằng loại xe này nhanh chóng phát
triển. Sự phát triển này còn ghi rõ trong
các bài vè, câu hát, ca dao...
và trong bài vè chợ Thủ dưới đây cho thấy
cùng với nghề mộc (trại cưa) nghề xe thổ mộ rất thịnh
hành, số xe tại bến xếp thành hàng dài để
chở khách:
“Xuống tới đầu chợ
Trại cưa trước mặt
Thổ mộ có hàng
Rủ nhau soạn bàn
Đi về Bưng Cải
Mênh mông đại hải
Khắp cả Châu Thành”
(Vè chợ Thủ – trích Dân ca Sông Bé,
NXB Tổng hợp 1991, trang 49)
Từ xưa nay, chợ Thủ Dầu Một luôn là ngôi chợ trung
tâm của tỉnh lỵ, chợ đầu mối đưa nhận khách và
hàng hóa đi về giữa Thủ Dầu Một và Sài
Gòn – Gia Định hoặc giao nối đi về các thị trấn
làng xã trong tỉnh. Vì thế trong bài
“Vè 47 chợ” đã mô tả nét đặc biệt về sự nhộn
nhịp ra vào “dọc ngang” của đoàn xe thổ mộ tại ngôi
chợ quan trọng hàng đầu này:
“...Thiên hạ thất kinh
Là chợ Hớn Quản
Khô như bánh tráng
Là chợ Phan Rang
Xe thổ mộ dọc ngang
Là chợ Thủ Dầu Một
Khỏi lo ngập lụt
Là chợ Bưng Cầu...”
(Vè 47 chợ)
Theo nhiều tài liệu, vào đầu thế kỷ XX, phương tiện giao
thông của cả miền Đông Nam bộ chỉ có khoảng năm ba
chiếc ô tô (lúc bấy giờ gọi là xe điện), chạy
các tuyến đường Sài Gòn – Chợ Lớn, Sài
Gòn – Hóc Môn, Sài Gòn – Thủ Dầu Một.
Đó là những chiếc xe đò còn rất thô
sơ, nhưng chỉ những người quyền quý, có tiền mới
dám sử dụng. Còn đa số dân lao động thường đi bộ,
khá hơn thì đi xe thổ mộ, nhất là khi có
hàng hóa cần phải chuyên chở thường phải
dùng đến loại xe ngựa này. Vì vậy, xe thổ mộ
có cơ hội phát triển nhanh. Các cơ sở đóng
xe ngựa và nuôi ngựa đã sớm được hình
thành và cũng hình thành luôn cả một
đội ngũ chuyên làm nghề đánh xe ngựa. Tuy xe ngựa
đã xuất hiện nhiều nơi ở Nam bộ, nhưng vào thời ấy cả
vùng Đông Nam bộ chỉ có vài ba nơi có
khả năng sản xuất được chiếc xe ngựa và thường dùng loại
phương tiện này là ở Hóc Môn, Gò Vấp,
Thủ Dầu Một và Lái Thiêu. Hai trong 4 địa danh ấy
nằm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ngày nay;
Điều đó cho thấy, xe thổ mộ thời xa xưa đã rất
phát triển ở Bình Dương. Người ta vẫn gọi xe sản xuất tại
đây là xe Thủ Dầu Một để phân biệt với xe nơi
khác. Hơn thế, trong việc truyền miệng trong dân gian,
nhiều người còn tin rằng chợ Thủ, chợ Lái Thiêu
là cái nôi đầu tiên sản sinh ra chiếc xe
“thùng Thủ”, tức là chiếc xe ngựa - xe thổ mộ đã
nói trên.
Nhiều cụ già đất Thủ cho rằng ở các vùng Tương
Bình Hiệp, Tân An, Hiệp An, Phú Cường có
nhiều cơ sở đóng thùng xe rất đẹp, bền chắc và
trang nhã. Còn nơi làm bánh xe, trục xe bền
chắc hơn cả là vùng Thuận Giao, An Thành vì
nơi đây có nhiều thợ rèn lành nghề.
Theo các tác giả Pháp là L.De Grammont
và Baurac, các chiếc xe song mã sang trọng được
đưa vào đất Bình Dương và miền Đông Nam bộ
để phục vụ cho một số quý tộc, quan lại Pháp vào
những năm 90 thế kỷ XIX. Thấy loại xe này đẹp và tiện
dụng, người thợ Bình Dương vốn khéo tay liền mô
phỏng để chế tác ra chiếc xe thổ mộ. Việc mô phỏng
này thành công dễ dàng, vì ở
Bình Dương không chỉ có thợ mộc giỏi mà
còn có nhiều loại gỗ quý tốt cứng chắc để
làm xe. Lúc đầu trục xe, căm xe làm bằng gỗ cứng,
về sau cải tiến làm bằng sắt do các thợ rèn
tài nghệ đảm nhiệm, nên xe càng chắc chắn di chuyển
càng thêm dễ dàng. Từ chỗ thùng xe
đóng không mui, sau cải tiến thành có mui
che mưa nắng thêm tiện lợi. Ban đầu chưa có đèn
chuông, về sau có gắn đèn chai lồng và lục
lạc để báo hiệu... Đặc biệt, khi hoàn chỉnh một
chiếc xe, việc chọn giống ngựa ô, ngựa khỏe ở vùng
Tân Sơn Nhất, Gò Vấp, Hóc Môn là một
bổ sung rất quan trọng để chiếc xe thổ mộ được đưa ra sử dụng. Kiểu
dáng, kích thước của chiếc xe thổ mộ có thể thay
đổi cho thích hợp tùy theo công việc sử dụng, nhưng
nói chung, vẫn luôn có sự cải tiến cho đẹp hơn,
tiện dụng hơn. Kích cỡ xe thổ mộ về sau dài và
rộng hơn xe thời trước.
Xe thổ mộ có lợi thế là rẻ tiền, gọn nhẹ, đi lại được
nhiều nơi có địa hình phức tạp, nhất là phù
hợp với số đông người lao động thời bấy giờ. Nếu tính từ
lúc ra đời, xe thổ mộ đất Thủ đã tồn tại trên 100
năm. Trước năm 1945, Bình Dương có rất nhiều xe ngựa,
riêng tại chợ Thủ có 3 bến xe thổ mộ với gần 50 chiếc.
Tiền xe một người đi xấp xỉ tiền một tô hủ tiếu cho đoạn đường
trung bình 10km.
Nhiều người cho rằng vị tiền bối của nghề đóng xe ngựa ở Thủ Dầu
Một là cụ Trần Văn Ký, sinh năm 1883. Nhưng người sắm xe
thổ mộ sớm nhất tại vùng đất này là ông
Hương quản Luốc ở xã Định Hòa (gần chợ Bưng Cầu, thị
xã Thủ Dầu Một).
Người cũng nổi danh về nghề đánh xe ngựa mà còn
nhiều nơi đều biết tiếng không ai khác hơn là người
con trai của vị tiền bối Trần Văn Ký nói trên:
đó là ông Sáu Xích, đã
có hơn 40 tuổi nghề. Theo ông Sáu, nghề đóng
xe ngựa từ xưa không có trường đào tạo mà
chỉ là nghề truyền thụ trong gia đình: cha dạy con, con
dạy cháu. Cũng theo ông Sáu, phần gay go nhất trong
các công đoạn đóng xe vẫn thuộc về phần gia
công bánh xe và các bộ phận chịu lực tải,
phần thân xe và gọng kéo thì đơn giản.
Bánh xe là phần chịu tải chính phải tuyệt đối bảo
đảm trong quá trình chế tạo. Một bánh xe ngựa
có 6 miếng đà, 12 thanh căm phải làm bằng gỗ
giáng hương hoặc gỗ chò. Khó khăn nhất đòi
hỏi tay nghề cao là khâu làm sao cho vành
đai đế niềng 6 miếng vỏ khít mí.
Hiện nay, nghề xe thổ mộ không còn hoạt động nữa, nhưng
Bình Dương vẫn còn là nơi hiếm hoi ở miền
Đông Nam bộ có khả năng phục chế được nhiều kiểu xe ngựa
trước đây để phục vụ cho nhu cầu của một số cơ sở, trung
tâm điện ảnh, du lịch ở phía Nam.
Riêng ông Sáu Xích vừa nói ở
trên, nhờ vào kinh nghiệm tay nghề và uy tín
cá nhân, ông nhận được hợp đồng tái tạo xe
ngựa cho các khu du lịch trong nước và khách nước
ngoài. Nhiều loại xe ngựa như xe kính (xe ngựa chở
khách có hai cửa), xe lá liễu có mui đều
được ông chế tác theo yêu cầu của nơi đặt
hàng. Giá một chiếc xe thổ mộ ít nhất cũng
trên mười mấy triệu đồng, xe lá liễu thì còn
cao giá hơn. Ông Sáu cũng cho biết xu hướng thẩm mỹ
của khách mua xe hiện nay: “Chừng mấy năm gần đây
yêu cầu thẩm mỹ trong cách trang trí cũng bắt đầu
có xu hướng cổ chuộng xưa, cho nên tôi cũng sản xuất
theo đơn đặt hàng những chiếc xe thổ mộ, xe lá liễu thu
nhỏ để trang trí...”.
Được biết số đơn đặt hàng của các quán cà
phê lớn, sang trọng ở thành phố Hồ Chí Minh
và các tỉnh càng gia tăng đối với sản phẩm
bánh xe ngựa do ông sản xuất để dùng vào
việc trang trí có tính hoài cổ này.
Giả một bánh xe ngựa (không dùng để chạy) hơn cả
triệu bạc.
Tương tự như vậy, theo nghệ nhân Trần Văn Trí, chủ cơ sở
mỹ nghệ Trung Trí cũng cho biết nghề làm bánh xe
bò ở các vùng Hưng Định, Vĩnh Phú cũng
có cơ may phục hồi đáng kể. Những bánh xe
bò làm ra ở đây không phải dùng cho
chiếc xe bò mà được xuất khẩu qua nhiều nước như Ấn Độ,
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Úc, Nhật Bản... để
trang trí các khu du lịch, khu resort của họ (Báo
Tuổi Trẻ số 256 ngày 18-9-2008).
Một nghệ nhân khác cũng rất nổi tiếng, không phải
vì ông chỉ có tài phục chế được các
cỗ xe ngựa của Bình Dương xưa, mà trực tiếp tham gia
nhiều bộ phim ở nhiều nơi, nhiều phim trường gần mấy chục năm nay, để
làm sống lại hình ảnh, bóng dáng của chiếc
xe ngựa vùng quê Nam bộ, mà tiêu biểu hơn cả
là chiếc xe ngựa Bình Dương do chính ông
phục chế và sử dụng trong nhiều phim. Người đó là
ông Hai Sộp, con trai của vị tiền bối trong nghề xe thổ mộ
là ông Hương quản Luốc đã nói trên.
Ông Hai Sộp hiện ở gần Cầu Ngang, chợ Búng, thị trấn An
Thạnh. Ông có cả một khu đất rộng dùng cho
tàu ngựa là cơ sở để phục chế xe ngựa.
Từ năm 1990, ông Hai đã được mời xuống Long Xuyên
đóng phim: “Thời thơ ấu” (kịch bản của nhà văn Nguyễn
Quang Sáng) đi bằng chính chiếc xe ngựa do ông chế
tác. Sau đó, ông lại xuống Cần Thơ tham gia phim
“Chân trời nơi ấy" (đạo diễn Trần Vịnh), tiếp theo là
các phim “Trường xưa kỷ niệm” (tại Bình Dương), “Giai
điệu quê hương”, “Mùi đu đủ xanh”, “Người Bình
Xuyên”... Cũng trong năm 1990, một hãng phim truyền
hình Pháp mời ông hỗ trợ cho 9 chiếc xe ngựa (theo
yêu cầu của hãng) để thực hiện bộ phim “Người
tình”. Thành công của phim này có
những đóng góp không nhỏ của ông.
Nhờ chiếc xe ngựa Bình Dương và tài năng của
mình, ông đã nghiễm nhiên thành “diễn
viên đánh xe ngựa” đặc biệt và quý hiếm
vì đồng thời là nhà cung cấp đạo cụ cho các
hãng phim trong và ngoài nước ở các cảnh
quay có sử dụng ngựa hoặc xe ngựa.
Ngoài việc “đóng phim”, ông còn đem ngựa, xe
ngựa tham gia các lễ hội lớn như Festival Huế và thường
nhận đóng vai phục chế các kiểu xe theo đơn đặt
hàng của các hãng phim, các khu du lịch
như: Bình Quới, Văn Thánh...
Sở dĩ ông làm được nhiều việc chung quanh cái nghề
(chế tác và sử dụng ngựa) tưởng chừng như đã đi
dần vào sự quên lãng vì ông có
được vốn hiểu biết sâu sắc về nghề này. Nhất là nhờ
ông có được lòng say mê và cả sự
quý trọng nghề truyền thống của cha ông. Được biết, khi
nghề sản xuất và chạy xe thổ mộ ở Bình Dương đã
không thể tồn tại và phát triển nữa, các
đồng nghiệp của ông đều chuyển nghề... Bao nhiêu đồ phụ
tùng xe ngựa của bạn bè giải nghệ, ông đều thu mua,
gom lại chất đầy kho. Không ngờ sau đó trở thành
“kho tư liệu” quý hiếm không dễ ai cũng có được.
Nói về con người đặc biệt này, nhạc sĩ Võ
Đông Điền - một nhạc sĩ nổi tiếng ở Bình Dương đã
viết: “Giữa cái tất bật hối hả của cuộc sống công nghiệp
vẫn còn có một người âm thầm muốn níu lại
hồn quê”. Người đó chính là nghệ nhân
Hai Sộp.
Như thế, nghề chế tác và chạy xe thổ mộ là một
nghề truyền thống khá lâu đời, gắn bó, quen thuộc
với cư dân Bình Dương trong nhiều thập kỷ. Tuy nay nghề
này không còn hoạt động nữa, nhưng vẫn còn
ghi lại nhiều dấu ấn đậm nét trong trí nhớ nhiều người ở
đây. Hình ảnh chiếc xe ngựa trên các nẻo
đường làng, trong các lễ hội, đám cưới
quê... đã từng tồn tại như một nét sinh hoạt văn
hóa của người Bình Dương và có lẽ của cả
vùng quê Đông Nam bộ xưa. Vì thế, đến nay vẫn
có nhiều người, trong đó không ít người trẻ
tuổi vẫn luôn hy vọng rằng, chiếc xe thổ mộ thân quen ấy
rồi sẽ tái hiện ở đâu đó trong những không
gian của các lễ hội hoặc ở các khu du lịch văn
hóa, sinh thái của đô thị Bình Dương cũng
như các đô thị đang trên đường công nghiệp
hóa và hiện đại hóa...
H.H - H.A
Ghi chú: Bài viết có tham khảo TL về chiếc xe ngựa
TDM – BD của các tác giả: Trường Ký, Đỗ Ngọc,
Lê Công Hiếu, Vũ Hùng, Điền Vũ trên các
báo và TC Bình Dương.
(Xem những hình ảnh về xe thổ mộ
ở Bình dương trong trang Hình ảnh Bình Dương xưa
và nay)