Ước Mơ Về Trường Trịnh Hoài Đức

Nguyên Thảo
(Kính tặng tất cả Thầy Cô, bạn bè ở 3 trường TH: Phước Thành, An Mỹ, Trịnh Hoài Đức)


Có lẽ trong thế hệ của tôi cũng như trước đó hoặc sau tôi còn nhiều năm nữa, trường Trung học Trịnh Hoài Đức luôn là một ước mơ cho những ai còn muốn tiếp tục đi học, hay bất cứ học sinh nào trong tỉnh Bình Dương. Bởi một lẽ đơn giản vì trường Trịnh Hoài Đức là trường Trung học công lập đầu tiên và duy nhất trong tỉnh lúc bấy giờ, nói là công lập tức là không phải đóng học phí từng tháng, cho nên nó thật sự là niềm ước mơ của bao nhiêu học trò nhỏ lẫn nghèo trong toàn tỉnh. Có khi cả hai ngàn mấy thí sinh mà chỉ chọn chừng hai trăm đứa mà thôi. Vượt qua được kỳ thi đã là “gạo cội” lắm rồi! Vì thế được tuyển vào trường Trịnh Hoài Đức vừa không tốn tiền học phí mà cũng là chứng tỏ mình có bản lãnh hơn người khác. Tôi, tuy là học trò có trình độ học rất khá trong lớp nhứt của trường Tân Phước Khánh, nhưng tôi không được diễm phúc là học sinh của trường Trung học Trịnh Hoài Đức sau kỳ thi. Đã hai lần tôi không đáp ứng được kỳ vọng của thầy cô: Một là kỳ thi học bỗng ở trường Nam Châu Thành vào năm lớp Ba, tôi đã khiến thầy Hòa thất vọng; lần sau cô Vũ Thị Hồng Ngọc lại hối tiếc cho tôi. Tôi cũng ngậm ngùi với thân phận của mình! Riêng ba tôi cũng có nhiều nỗi lo.

Tôi dự tính cũng như bao nhiêu bạn bè trong lớp cùng số phận: Không học trường tư mà sẽ xin học lại lớp nhất một năm nữa để cố thi vào trường Trịnh Hoài Đức. Thế là khi bắt đầu năm học mới chúng tôi phải đạp xe đạp đi ra tận Búng để học lại lớp tiếp liên ở trường Cộng Đồng Dẫn Đạo Búng. Chừng được hơn tháng, không biết bạn bè nghe tin từ đâu ở An Mỹ ông Dân Biểu Trần Văn Trai muốn gầy một trường Công lập thuộc chi nhánh của trường Trịnh Hoài Đức tại xã của ông. Vì uy tín của ông lớn, người ta rất tin tưởng điều ấy xảy ra. Bạn bè và tôi lại một lần khác cần chuyển trường “để đón gió”, hi vọng mình được hưởng phước “ké” trong điều ấy, mặc dù phải xin ba má đóng tiền học phí cho trường tư An Mỹ lúc bấy giờ. Được chừng hai tháng sau, những bạn bè cùng lớp ở làng bên cạnh - Tân Hóa Khánh, trước thuộc tỉnh Bình Dương nay tách ra thuộc quận Tân Uyên của tỉnh mới lập là Phước Thành, tỉnh nầy gồm ba quận Tân Uyên, Phú Giáo và Hiếu Liêm - cho biết là tỉnh mới có nhu cầu tuyển học sinh vào lớp Đệ Thất của trường Trung Học mới mở của tỉnh.  

Chúng tôi đậu được mười mấy người, lớp thì không đủ sức đạp xe đạp đi về mỗi ngày nên phải kiếm chỗ ở trọ, còn số lớn đạp xe đạp đi về. Tôi thuộc thành phần phải ở trọ. Lớp chúng tôi thuộc con cưng của tỉnh vì là lớp đầu tiên của trường Trung học công lập của tỉnh Phước Thành, không ngờ học trò rớt của trường Trịnh Hoài Đức lại là con cưng của một tỉnh lẽ cheo leo nơi vùng chiến khu D nhiều sôi động. Ở đây tôi nghe nói nhiều về nhà văn Bình Nguyên Lộc. Ông là Tô Văn Tuấn quê ở Tân Uyên, có người bà con là Tô Văn Trên và người cháu là Tô Công Tâm cùng học lớp với tôi, còn Tô Công Tước em Tô Công Tâm học sau tôi một lớp. Người ta kể rằng bình nguyên (cánh đồng) ở đây ngày xưa có nhiều nai (lộc) ra ăn cỏ nên từ đó mới có Bình Nguyên Lộc. Chỉ nghe kể thế thôi!

Ngồi học ở trường Tân Uyên nhưng lòng dạ cứ mơ về trường Trịnh Hoài Đức, cái ngôi trường mà tôi đã ước mơ được bước chân vào; nhất là những lúc Nguyễn Văn Nghĩa, Thái Văn Tâm, Lưu Văn Hòa... ngồi kể về chuyện giám thị hay thầy Trương Văn Di bắt “concil” vào những ngày cuối tuần. Cuối năm tôi làm đơn nộp vào trường Trịnh Hoài Đức để xin chuyển trường, nhưng đơn chẳng được cứu xét.

Cũng cùng năm nầy, quả thật An Mỹ đã có lớp Đệ Thất chi nhánh của trường Trịnh Hoài Đức gồm những học sinh trong danh sách đậu dự khuyết của kỳ thi vừa qua, nhưng tôi không biết lúc nào nó lại tách ra thành trường Trung học Công lập An Mỹ, song song với trường Tư Thục An Mỹ của ông Dân Biểu Luật sư Trần Văn Trai. Cái ngộ của tỉnh Bình Dương lúc bấy giờ là có hai trường trung học Công lập, nhưng không trường nào ở tại tỉnh lỵ cả. Một trường là trường Trịnh Hoài Đức nằm tại Búng trên trục quốc lộ 13, ba bên là ruộng nên người ta thường trêu là trường ruộng, còn trường An Mỹ nằm trong xã An Mỹ nhiều rừng tầm vông nên học sinh kháo nhau là trường rừng. Mà dù thế nào đi nữa, tôi vẫn không đủ tiêu chuẩn để vào trường nào cả dù là trường rừng hay trường ruộng.

Cuối năm Đệ Lục tôi cố làm đơn xin chuyển về trường Trịnh Hoài Đức một lần nữa, nhưng cũng không được mà lần nầy tôi lại thật là “quê”. Vốn sau khi nộp đơn một thời gian khá lâu, gần vào đầu năm học mới, tôi và chị Thay đến văn phòng của trường lúc đó còn nằm chung bên trường Cộng Đồng Búng. Chị Thay hỏi trước về hồ sơ của chị. Sau khi nghe trả lời hồ sơ của chị đã bị “bác”. Tôi bỗng nhiên sợ hẳn làm cho cô thư ký cười rộ lên, tôi cũng không hiểu vì sao? Tiu nghỉu ra về, tôi hỏi chị Thay tại sao cô thư ký cười tôi như vậy. Chị Thay nói: Tại sao lúc đó mặt em xanh tái vậy? À, thì ra tôi sợ hồ sơ của mình bị bác như của chị Thay, nên tôi đã xanh mặt ra như thế đó. Từ đó tôi mới hiểu nguyên nhân vì sao tôi đã rớt, trong hai kỳ thi trước kia mà thầy cô đã kỳ vọng nơi tôi cùng với hai bài luận tôi tả hơi xa đề, chứ chưa hẳn là lạc đề.

Năm nầy, Nguyễn Thành Long và em gái ruột là Nguyễn Thị Kim Phụng được chuyển về trường Trịnh Hoài Đức, họ đã được thỏa mãn ước mơ. Còn tôi với Nguyễn Ngọc Thạch A, Trần Tấn Lực, Phan Văn Son, Nguyễn Văn Huệ, Phạm Văn Chi hãy còn tiếp nối đoạn đường dài. Và từ đây tôi không còn dám mơ về trường Trịnh Hoài Đức nữa. Tôi đã mòn mõi về ước mơ đó. Chúng tôi vui vẻ chấp nhận với các thầy cô Tạ Kim Anh, Trần Văn Khánh, Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Thị Hồng, Trần Kim Vân, Mai Văn Phú, Mã Sấm và Nguyễn Văn Thại. Chúng tôi kéo dài niềm vui đó ở Tân Uyên cho đến hết năm Đệ Tứ và đậu được bằng Trung học Đệ Nhất Cấp. Trong hai năm nầy có một điều mà tôi không thể hiểu được, cho đến giờ nầy tôi vẫn không thể suy luận ra được, đó là câu chuyện của Nguyễn Ngọc Thạch A. Thạch A vốn từ những năm Tiểu học cho đến lớp Đệ Lục, nó chỉ học bình thường thôi, nhưng chỉ qua ba tháng nghỉ hè, khi bước vào năm học mới (Đệ Ngũ) tự dưng nó học giỏi đồng loạt tất cả các bộ môn, chỉ có hai ba môn gì đó của nó tệ nhất cũng là hạng tư trong xếp hạng cuối năm của các môn. Nó giỏi đến năm Đệ Tứ, sang năm Đệ Tam Thạch A và Lực về trường Trịnh Hoài Đức, còn tôi, Son và Huệ thì về trường rừng An Mỹ làm lớp đàn anh của trường trung học công lập An Mỹ. Khoảng thời gian nầy tôi không muốn về trường Trịnh Hoài Đức nữa: Một phần vì trường xa nhà hơn trường An Mỹ, hai là hoàn cảnh tôi lúc ấy không thể cho tôi học theo nỗi với bạn bè nếu tôi về trường Trịnh Hoài Đức vì học sinh nơi ấy vốn đã là “gạo cội”.

Thế nhưng, sau hai năm tôi vẫn được ngang nhiên chuyển về trường Trịnh Hoài Đức sau khi đậu Tú Tài I vì trường An Mỹ chưa thể có được lớp Đệ Nhất để hoàn tất năm cuối của bậc Trung học.

Ước mơ “được học” ở trường Trịnh Hoài Đức của tôi được toại nguyện sau sáu năm dài đăng đẳng và chạy lòng vòng chỉ vì mình thi rớt, nhưng may mắn hơn là tôi chẳng phải mất một năm nào để “ở lại lớp”.

Ngày đầu tiên nhập học lại trúng ngay giờ của ông thầy Nguyễn Vũ Hải. Tôi vì nhỏ con nên ngồi ở dãy bàn đầu, nhưng hàng dọc thứ ba tính từ ngoài vào trong. Nhưng sát vách và cửa sổ là anh bạn mới Từ Văn Nhung, anh bạn có cái gương mặt trẻ hơn tôi, cái dáng cao cao nhưng hơi ròm, lưng hơi tom tom. Tôi không nhớ rõ lúc đó thầy Vũ Hải đã nói gì, nhưng sau đó thì thầy nhìn tôi và nói: “Sao mầy ngu thế, thế mà cũng đậu được tú tài, mầy mua ở đâu thế!”. Tôi không hiểu thầy đã nói với tôi hay là với Từ Văn Nhung, nhưng điều ấy cũng làm cho tôi có “ấm ức” trong lòng. Chúng tôi “sợ” thầy Vũ Hải hơn vì thầy thật là nghiêm khắc! Có lần thầy đuổi Nguyễn Thành Tri ra khỏi lớp chỉ vì không làm được bài toán trên bảng. “Tao bảo mầy về!”, cả lớp cứ tưởng Thành Tri bị đuổi về chỗ ngồi mà thôi, nhưng khi Nguyễn Thành Tri vừa đặt đít lên băng ngồi thì thầy Vũ Hải nghiêm nghị: “Tao bảo mầy về, ôm cặp ra về!”. Thành Tri phải ôm cặp ra ngoài trước sự ngạc nhiên của bạn bè. Nhưng sau đó ít lâu nhân trong một dịp kẹt xe đò từ Sài Gòn lên Bình Dương như thế nào đó, thầy Vũ Hải phải đến lớp trễ gần nửa tiếng đồng hồ. Lỡ cổ, thầy có một buổi giãi bày tâm sự, nói chuyện đời, thời cuộc và từ buổi ấy cả lớp cảm thấy thương và thích thầy hơn, chứ không giống như trước kia. Có những kỷ niệm mà khiến cho tôi cũng như nhiều bạn bè không thể quên trong năm học ấy như Thầy Nguyễn Văn Phúc dạy Triết, vì là năm đầu tiên ra trường về dạy hay là thói quen, thầy để râu nhưng trong giờ thầy cứ hết đi từ bàn ra cửa rồi từ cửa quay vào như một con thoi, cứ thế mà giảng cho đến hết giờ. Thầy Phó Bá Long thì cứ “chắc chắc” cái lưỡi khi giảng bài mà cái lớp cứ ồn ào, nhưng lạ một điều khi ấy thầy lại nhìn lên trần nhà phía sau, khiến một bửa nọ không hiểu tại sao cả lớp lại ngoái đầu nhìn lên trần nhà phía sau khi thầy Bá Long chắc chắc cái lưỡi, khiến thầy ngạc nhiên hỏi: “Cái gì vậy?”, nhưng không ai nói gì cả. Thầy buột miệng cười, cái cười hiếm thấy ở thầy Bá Long. Thầy cười có duyên “gớm!”, hèn chi người ta nói vợ thầy đẹp lắm. Đố các bạn tại sao lớp làm như vậy? Thì ra, trong lớp quay lại nhìn lên trần phía sau theo hướng nhìn của thầy Bá Long là để nhìn xem coi có con thằn lằn nào không? Chỉ có thế thôi! Thầy Phạm Ngọc Em dạy vật lý rất dễ hiểu, nhưng mỗi lần lên bảng quần thầy dính đầy phấn. Vài tháng sau thầy Tuấn thay thế thầy. Thầy Nguyễn Trí Lục thay cô Nguyễn Thị Hưng dạy Vạn Vật. Thầy Huyên dạy Công Dân. Thầy Nguyễn Huy dạy Địa lý (sau thầy lên dạy ở Đại Học). Điều tôi không thể quên là thầy Nguyễn Ngọc Thạch dạy Pháp Văn, lúc đó hình như thầy từ trên trường Phú Giáo chuyển về thì phải. Trong lớp đã có Nguyễn Ngọc Thạch A, B rồi lại thêm thầy Nguyễn Ngọc Thạch nữa, thầy là tác giả bài thơ “Đừng kể bắc, đừng kể nam...” gì gì nữa mà tôi không nhớ, mà nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã phổ nhạc để cho thanh niên hát trong những buổi sinh hoạt đó. Chuyện lính địa phương làm khó Thầy cũng ồn ào ở trường một thời gian

Riêng về bạn bè thì có lẽ là Thái Văn Bạn là người mà khiến cho lớp nhớ nhiều vì anh chàng hay trêu và nói những câu tiếu lâm nhứt. Còn học giỏi thì không ai qua được Nguyễn Ngọc Cẩn và Ngô Trọng Hải. Người ta đi thi Tú Tài II chỉ cầu mong đậu là quý lắm rồi, nhưng hai anh chàng nầy lại đậu “Tối Ưu”, đi sang Úc du học (bằng học bỗng từ năm 66, 67).

Ước mơ được học ở trường trung học Trịnh Hoài Đức của tôi ngay từ thuở còn học ở trường Tiểu học Tân Phước Khánh chỉ gói gọn có một năm Đệ nhứt mà thôi! Thế nhưng cũng đem đến cho tôi thật nhiều kỳ niệm, những kỷ niệm dấu yêu của một thời mài đủn quần trên ghế nhà trường.

Hôm nay viết lại để cùng bạn bè ôn về một thuở xa xưa, để người ta không phải sai lầm khi nói “người già thường hay sống về quá khứ”, một lần nữa mình “cũng nên” giúp cho tư tưởng ấy được đúng phải không các bạn?

Nguyên Thảo
3/12/09