Truyện Nôm cổ in đầu thế kỷ XX được phát hiện ở Bình Dương

Phan Thanh Đào
 

Sự xuất hiện của chữ viết để ghi nhận tiếng nói và tâm hồn của dân tộc, sự xuất hiện ấy là một dấu ấn quan trọng nói lên bước tiến lớn lao của nền văn hóa dân tộc đó.

Ở Việt Nam ta, sự xuất hiện chữ Nôm là đánh dấu sự trưởng thành của nền văn hóa dân tộc, chữ viết ấy xuất hiện trong lịch sử nước ta cách nay trên 10 thế kỷ. Chữ Nôm dùng để chuyển tải tiếng nói của dân tộc, vừa để ghi lại nền văn hóa, văn minh riêng tư của giống nòi.

Trong quá khứ, vì nhiều lý do dân tộc ta đã học chữ Hán phát âm theo giọng Việt để rồi ông cha ta mượn các bộ chữ Hán mà sáng tác chữ Nôm, trong lịch sử văn học, ông cha ta đã sáng tác nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm có giá trị xuất sắc mang rõ tính bác học, bên cạnh đó là những tác phẩm đậm nét tính dân gian phản ánh cách sống và tâm tư của những người bình dân, là tầng lớp người đông đảo trong xã hội. Trong những tác phẩm dân gian ấy lần lượt chúng ta phát hiện được nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên đến ngày nay cũng chưa có thể nói là chúng ta đã phát hiện hết những tác phẩm Nôm mà người xưa đã sáng tác, bởi vì chữ Nôm đã trở thành chữ cổ, một thứ 'từ ngữ', ít người biết. Mặt khác, do qua thời gian và chiến tranh tàn phá làm mất mát. Đó là chưa kể: Ngày xưa việc in ấn còn nhiều hạn chế, nên số lượng tác phẩm được in ra rất hạn hẹp, nên tác phẩm lưu truyền không nhiều, dễ bị thất lạc, mất mát.

Điều may mắn là gần đây chúng tôi đã phát hiện được một tác phẩm chữ Nôm trên đất Bình Dương mình, cụ thể là tác phẩm đã nằm trong kho sách cũ ở chùa Hội Khánh, một ngôi chùa cổ có chứa nhiều di tích di sản văn hóa quý.

Qua sự tìm hiểu về tác phẩm này, chúng tôi sơ bộ có thể đưa ra một số nhận định bước đầu sau đây:

Đây là tác phẩm Nôm cổ xưa duy nhất còn lại trên đất Bình Dương chúng tôi đã tìm, hỏi nhiều nơi như Huế, Quy Nhơn nhưng vẫn chưa ai biết về sự xuất hiện của tác phẩm này. Thứ hai là tác phẩm trên là tác phẩm có chủ đề về tư tưởng Phật giáo, nếu xét về tác phẩm chữ Nôm cổ viết về những tư tưởng Phật giáo dân gian thì đây là tác phẩm thứ ba sau hai tác phẩm là Quan Âm Thị Kính và tác phẩm Phật Bà Quan Âm.

Do vậy mà tác phẩm này cũng mang tính giáo dục và tính khuyến thiện đậm đà. Tác phẩm có tên là: Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển. Sách được in bằng giấy bản xưa, khổ 13x21 , bìa ngoài màu đỏ với chữ Hán viết tay: Lưu Hương cổ tích toàn truyện. Lớp bìa bên trong với chữ, ghi: Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển, bên trái ghi: Đại Nam Quốc tín nữ Nguyễn Từ Nguyên, Hoàng Diệu Trúc đồng kính san. Bên phải ghi Quang Tự tam thập tứ niên Mậu Thân mạnh thu cốc đán (1908).

Toàn bộ tập sách có 86 trang, gồm có 3.042 câu thơ lục bát.

Xét về nguồn gốc thì chúng ta thấy loại “Bảo quyến” xuất hiện ở đời Tống (TQ) và có hai loại: Một loại được gọi là Kinh vì đã diễn nghĩa tứ các kinh Phật như: Dược sư bản nguyện công đức bảo quyển... Loại thứ hai là diễn nghĩa từ những truyện cổ của Phật giáo, loại này rất được dân gian ưa thích, như: Mục Liên Cứu mẫu xuất li địa Ngục Thăng Thiên Bảo Quyển, Ngư Lam Quan Âm Bảo Quyển, Diệu Anh (?) Bảo Quyển... Ngoài ra có những tác phẩm cũng diễn nghĩa từ những cố sự trong dân gian mang nội dung tư tưởng Phật giáo dùng để khuyến thiện, răn đời như Hương Sơn Bảo quyển và Lưu Hương Nữ Bảo Quyển, tác phẩm Lưu Hương... đã được một tác giả Việt Nam nào đó đã diễn Nôm thành lập thơ Lưu Hương... như đã thấy.

Nội dung nguyên tác Lưu Hương Nữ Bảo Quyển như thế nào chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu cụ thể được, ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt cốt truyện ở bản Nôm Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển này:

“Lưu Hương là con gái của ông bà Lưu Quang và Từ thị, lúc mới sinh có ánh sáng và mùi hương tỏa ra nên cha mẹ lấy điềm lành mà đặt tên cho con mình. Lớn lên Lưu Hương sớm có lòng mộ đạo: Khi nghe ni cô Chân Không giống lý nhân quả, nàng đã ngộ đạo và quyết chí tu hành, nàng khuyên cha mẹ bỏ nghề buôn bán rượu thịt...

Trong vùng có Viên ngoại họ Mã, nhà giàu có mà kém đạo đức, lại muốn cưới Lưu Hương cho con trai thứ ba là Mã Ngọc. Vì sợ gây thù kết oán làm khổ cha mẹ nên Lưu Hương chấp nhận cuộc hôn nhân. Dù có chồng nhưng Lưu Hương vẫn ăn mặc sô gai, lại cảm phục được chồng cũng ăn chay giữ giới như mình, nhưng rồi bị mẹ chồng phát hiện đánh đập nàng và buộc con trai phải đi xa tìm thầy học hành theo con đường khoa danh.

Vì Lưu Hương quyết giữ nếp sống tu hành nên hai người chị dâu không ưa theo rình rập rồi vu cáo nàng với mẹ chồng để nàng bị đánh đập tàn nhẫn. Mặc dù nhiều lần bị oan, nàng vẫn nhẫn nhục và luôn mong mẹ và hai chị sớm thấy được lẽ đạo. Nhờ sự nhẫn nhục và lòng luôn vị tha ấy mà nàng đã cảm phục được hai nàng hầu là Ngọc Mai và A Hoàn.

Muốn nàng bỏ cuộc sống tu hành, mẹ chồng bắt nàng đảm trách toàn bộ công việc bếp núc, nàng chấp nhận làm việc vất vả ấy, nhưng van xin mẹ chồng không buộc nàng sát sinh loài vật, nhưng càng van xin nàng lại càng bị hành hạ đánh đập nhiều hơn.

Đến tiết Thanh minh, toàn thể gia đình họ Mã đi tảo mộ, Lưu Hương cũng phải đi theo, đến nơi thấy người ta giết hại súc vật để cúng tế, nàng bất nhẫn lén trốn đến một nơi vắng mà thở than, cầu nguyện. Mẹ chồng bắt gặp, nàng bị đánh đập và buộc phải ở lại nghĩa trang không cho về nhà. Ngày kia nơi nghĩa trang nàng đã che giấu một con thú do hai người anh chồng săn đuổi, nên nàng đã bị hai gã này đánh đến bất tỉnh, sau nhờ con thú có tánh linh chạy đi báo vợ chồng lão giữ nghĩa trang rồi ngậm lá thuốc đến cứu tỉnh nàng, sau chính nàng lại cảm hóa vợ chồng lão giữ nghĩa trang rồi ngậm lá thuốc đến cứu tỉnh nàng, sau chính nàng lại cảm hóa vợ chồng lão giữ nghĩa trang sống đúng theo con đường đạo hạnh. Đến đây những tưởng là nàng có thể yên thân tu hành, không ngờ tin Mã Ngọc, chồng nàng thi đậu Trạng nguyên và sắp vinh quy, hai người chị dâu từng xử ác với nàng nay sợ lộ chuyện nên vu cáo nàng đã ngoại tình, thất tiết ở nghĩa trang, thế là mẹ chồng cho gọi nàng về, không cần hỏi han gì mà ra tay đánh đập rồi cạo tóc nàng mà đuổi đi. Trước sự việc ấy nàng lại cho là gặp sự may mắn, vì bây giờ nàng có dáng tu hành, Lưu Hương tìm tới một miếu để ở, ngày đi khất thực tối về cổ miếu tụng niệm. Một đềm có hai gã vô lại xông vào miếu định cưỡng hiếp nàng nhưng nhờ có thần linh che chở, nàng lại dùng lời lẽ cảm hóa được hai kẻ kia. Dần dần tiếng tăm đạo hạnh của nàng vang xa, nàng đã giúp nhiều người trở về với đạo pháp, đồng thời nàng được mời về một ngôi đền trang nghiêm, ở đó tu trì.

Mã Ngọc vinh quy bái tổ, không thấy vợ mình đâu, tìm hiểu biết sự việc đã đến thăm và khuyên nàng trở về, nàng nhất quyết không chịu lại khuyên Mã Ngọc lấy vợ để có con nối dõi tông đường.

Kim Chi, người vợ sau của Mã Ngọc lại là cô gái hiền đức, một lòng kính trọng và tuân theo lời dạy của Lưu Hương mà sống đạo hạnh và đi theo Mã Ngọc đến trấn nhậm triều Châu.

Nhân lễ đáo tuế của Viện Quân, mẹ chồng của Lưu Hương, cả gia đình họ Mã ăn phải cá độc mà ngã ra chết, chỉ hai cô hầu nhờ trường trai mà thoát nạn. Lưu Hương được tin dữ, rất đau xót, vội vàng trở về lo ma chay, báo tin cho Mã Ngọc để về thọ tang. Sau cùng Mã Ngọc lai kinh trả lại chức tước để tiếp tục cuộc sống tu hành đạo hạnh...


Toàn bộ câu chuyện đặt trên cơ sở tinh thần nhẫn nhục, giữ giới, kiêng sát sanh của Phật giáo, lại đề cao thuyết nhân quả. Cốt truyện đặt trên quan điểm phổ biến của văn học cổ điển: “Tích thiện phùng thiện tích ác phùng ác”. Mâu thuẫn được phản ánh trong tác phẩm là những mâu thuẫn xảy ra trong gia đình: Mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu, mâu thuẫn giữa những chị em dâu trong gia đình.

Tác phẩm này nặng tinh thần đạo đức và khuyến thiện nên trong quá trình xây dựng nhân vật chưa làm đậm nét nhân vật phản diện nếu so với tác phẩm Quan Âm Thị Kính chẳng hạn. Tuy nhiên, chúng ta cũng đọc thấy nơi đây hình ảnh hiện thực của cuộc sống nông nghiệp ngày xưa, ở đó người nghèo khó đã bị ngược đãi, chẳng hạn đoạn thuật việc gia đình Mã Viên ngoại ngang nhiên bắt bớ hành hạ những kẻ thiếu nợ một cách tàn nhẫn:

Bắt người khiếm trái chớ chầy
Cắt sai công việc thuở này khổ thân.
Đêm ngày kẹp khảo vang rân,
Ngày ăn một bữa việc mần hoảng kinh.
Một bổ (người) khiếm trái thất thinh
Cùng nhau tính việc bán mình đợ con
Âm thầm than khóc nỉ non
Bởi năm thiêm tháp (?) vợ con đợ đần.
Người nào trả đặng khỏi mần
Kẻ lo chưa đặng chịu phần khổ lao.

Ngoài ra tính dân gian Nam bộ là nét nổi bật của tập truyện thơ Nôm này.

P.T.Đ

(Giáo viên về hưu)
Nguồn: http://www.sugia.vn