TRƯỜNG XƯA TRONG
TRÍ NHỚ
GS Nguyễn Đức Cẩm
Bút Ký
Mùa Giáng Sinh 1995
(Thân tặng
Các bạn cựu học sinh
Trinh Hoài Đức
Thuộc các niên
khoá cuối thập niên 1950 )
Tôi suy nghĩ đôi chút trước
khi quyết định dùng đại danh từ “các bạn” trong
bút ký này.
Bốn mươi năm trước đây, các bạn
và tôi có mối dây ràng buộc, với
Bình Dương, với Búng, với Trịnh Hoài Đức.
Đó là mối liên hệ với ngôi trường lẻ loi
bên lề Quốc Lộ 13, giữa khoảng đồng trống có mầu
xanh đậm, nhạt thay đổi từng mùa, từ màu xanh lá
mạ của lúa non đến màu xanh cỏ già của lá
khoai mì. Những lớp học trống trải và lạnh lẽo trơ trọi,
đến với những người ngược xuôi trên con đường mang một con
số thường được cho là không may mắn đó, lại
là nơi chốn thật đầm ấm, thân thương đối với chúng
ta.
Chúng ta đã cùng làm
việc chung ở đấy, nhưng có nhiều cái riêng, nhiều
cái khác nhau. Các bạn ngồi trên những ghế
dài của học sinh, tôi đứng trên bục giảng.
Bôï bàn ghế gỗ đơn sơ kê trên bục rất
ít khi được tôi sử dụng. Những người học sinh cũ, chẳng
cần tinh ý nhiều, cũng nhận thấy là tôi không
bao giờ ngồi để giảng bài. Các bạn ngồi nghe và
tôi đứng trên bục giảng. Các bạn ngồi ghi
chép tôi đứng trên bục đọc cho các bạn ghi
chép. Các bạn lên bảng “Trả bài” Và
tôi ngồi nghe, kiểm tra lại, và cho điểm. Đấy là
những giây phút ít ỏi và duy nhất tôi
được ngồi, phải ngồi trong giờ học. Các bạn là những
người ngồi ghi nhận kiến thức. Tôi là người đứng truyền
đạt kiến thức. Thuở đó các bạn là các
cô, các cậu ở lớp tuổi 13, 14,15 còn tôi
là một thanh niên 25,26 tuổi. Các bạn gọi tôi
là thầy, xưng em, còn tôi thì xưng hô
ngược lại. Có lẽ đó là điểm khác biệt lớn
nhất. May mắn quá, điểm khác biệt lớn ấy không hề
là hố sâu. Cho đến nay, gần 4 chục năm đã
trôi qua, tôi vẫn thành thật mà nói
rằng thuở đó, tôi luôn coi học sinh, lớp lớn cũng
như lớp nhỏ, y như những người em út cho nên, tôi
rất ngại ngùng khi phải phê một điểm nhỏ, và chẳng
bao giờ phê điểm “Số không” Cả. Phải công bằng, dĩ
nhiên, nhưng mỗi khi cho một điểm quá nhỏ, tôi
thường nhìn trộm xem phản ứng trên nét mặt của
cô hay cậu học sinh kém may mắn. Tôi luôn
luôn nghĩ họ kém may mắn, vì một cớ nào
đó quên bài. Chứ không nghĩ họ lười và
không bao giờ nghĩ họ kém thông minh. Thật ra, hồi
đó, học sinh Trịnh Hoài Đức rất siêng năng
và đặc biệt có tinh thần ganh đua, cho nên
tôi ít khi phải buồn theo cái buồn của các
học sinh được điểm nhỏ. Ngoài ra tôi có một số học
sinh, có nhiều học sinh, vì thích học những giờ
tôi giảng, nên có thể đã lười biếng đôi
chút trong những môn học khác, nhưng lại đặc biệt
chăm chỉ, vì muốn làm vui lòng người dạy.
Tôi linh cảm được, nhận thấy được những tình cảm trong
sáng và dịu dàng đó. Cho đến nay,
lúc ngồi viết những dòng này, ở một chốn
không gian khác hẳn, mịt mù và xa lạ,
lúc tuổi đời đã chỉ còn rơi rớt như một
chút nắng xế, tôi vẫn cảm thấy lòng bồi hồi, tiếc
một cái gì quý báu đã mất.
Cái gì quý báu đó không một
kho tàng nào có thể mua nổi . Đọc tới đây
các bạn có lẽ cũng ngừng lại để tâm trí đi
ngược về quá khứ. Tôi biết có nhiều bạn đang
cùng một xúc động như tôi …..
Vậy thì chúng ta đã cùng
nhìn lại về trường xưa với một cái nhìn như nhau,
một tình cảm như nhau. Giữa chúng ta không
có mối liên hệ thầy trò nữa. Đã bốn chục năm
qua. Kiến thức tôi đứng lại. Các Bạn đã trưởng
thành, cùng ra đời, sinh hoạt trong xã hội từ
lâu. Ai cũng có gia đình, con cái, nhiều
người có dâu, rể. Có người có cháu
nội, ngoại. Tôi thấy gần những học sinh cũ của tôi hơn.
Tôi coi đấy là những người bạn …
Có nên kể lại những kỷ niệm của
quá khứ chăng ? Như những kỷ niệm các bạn cùng kể,
mỗi khi có dịp cùng ngồi lại . tôi đã
làm việc tại nhiều nơi, từ trên bốn mươi năm qua. Đấu
tiên là Châu Đốc, rồi Bình Dương, Gia Định.
Rồi tới Nha Trang, lại Gia Định, rồi Sài Gòn. Tới những
năm ở xa quê hương, cũng trải qua ba, bốn chỗ khác nhau.
Nhưng ở nước ngoài, tôi không có kỷ niệm,
nói cho đúng hơn, không có gì
đáng gọi là kỷ niệm. Chỉ ở quê hương mới có,
mới có thật nhiều. Bình Dương là nơi nhiều kỷ niệm
nhất. Tôi còn nhớ tên, nhớ hình dáng,
cử chỉ, nét mặt, lối nói năng, chỗ ở … của nhiều người.
Nhưng tôi sẽ không kể tên một cá nhân
nào ở đây. Tôi không muốn nhớ người này
mà quên người khác. Nếu có cái
gì hay hay đáng nhắc lại về ai đó, tôi cũng
không nêu rõ danh tính ra. Các Bạn
muốn hiểu sao cũng vẫn là đúng.
Có nên kể lại những kỷ niệm trong lớp
học, giờ học chăng ? Mấy trang đầu của bài viết này
đã tạm đủ rồi . Tôi chỉ muốn thêm một chi tiết
là lạ trong cách soạn bài giảng của tôi.
Tôi cho là khác lạ vì tôi nghĩ rất
nhiều Bạn học sinh Trịnh Hoài Đứccũ, sau trở thành
nhà giáo, có nhiều cách soạn bài
nhưng chắc ít ai soạn bài giống tôi . Hồi đó
tôi luôn luôn cố gắng làm sao để mỗi buổi
giảng phải có cái gì vui vui đáng nhớ. Một
chuyện khôi hài , một từ ngữ lạ, một tư tưởng hay …
Không cần liên quan đến bài học, tôi
tìm cách móc nối để nói ra cho cả lớp hưởng
chung. Tôi không biết có ai tinh ý
nhìn thấy đặc điểm này chăng ?
Có thể không ai còn nhớ nữa, 40
năm rồi ! Chịu đựng từng trải hết bao vui buồn, khó khăn, biến
chuyển khác thường, nếu ta có quên thì cũng
là lẽ thường thôi. Vậy tôi kể một chuyện nhỏ
này để gợi lại. Số là , mới hôm qua, có mấy
người, xưa học ở Trịnh Hoài Đức tới thăm. Có ai đó
nhắc đến tên một nhà giáo Bình Dương, con
của nhà văn Bình Nguyên Lộc. Tức khắc, cái
méo mó nghề nghiệp “ sưu tầm chuyện lạ” của tôi
được đánh thức dậy. Tôi nói: “Có ai biết tại
sao có tên Bình Nguyên Lộc không ?
Ông Bình Nguyên Lộc quê ở Đồng Nai.
Bình Nguyên tức là cánh đồng, tức là
“ Đồng”. Còn Lộc là con nai.” Một người hiện diện
xác nhận nhà văn này quê ở Biên
Hoà, có lúc gọi là tỉnh Đồng Nai. Đấy, đại
cương về những chuyện “ Lượm lặt” Của tôi là như vậy. Chỉ
cần chịu khó đọc, chịu khó nhớ, chịu khó
liên tưởng, nhìn ra cái ẩn giấu giữa những
hàng chữ, là có được 01 bài giảng,
lâu lâu lại có 01 nét vui vui, đỡ
làm cho người nghe ngủ gục giữa giờ.
Có nên kể những kỷ niệm về các
hoạt động báo chí của chúng ta hồi đó chăng
? Chắc là nên. Tôi đã làm việc tại
nhiều trường, sau này có trường lớn gần trăm lớp, chưa
có nơi nào mà bích báo phong
phú như ở trường Trịnh Hoài Đức nhỏ xíu
ngày ấy. Tôi nhớ lại một trường ở Gia Định, nhà
trường cấp giấy, mực vẽ, tiền bạc, thúc giục, khuyến
khích …, Nhưng bích báo chỉ cố được hai trang, hai
tờ thì đúng hơn. Bích báo Trịnh Hoài
Đức qua mặt tất cả, hàng chục trang giấy croquis khổ lớn,
dán kín tường cầu thang, lối lên lầu. Mầu sắc đẹp,
sắp xếp cân đối, nghệ thuật như những bức tranh. Còn
bài vở thì, tương ứng với cấp lớp hồi đó có
thể gọi là rất hay được. Mà chúng ta làm
gì được cấp ngân khoản báo tường; Làm
gì nâng đỡ … Nhưng chúng ta thích,
chúng ta yêu quốc văn, chúng ta biết sắp xếp
công việc. Và chúng ta đã làm được.
Có nên kể đến tờ nội san của
chúng ta chăng ? Chắc là nên các trường lớn
nhỏ thường có nội san vào dịp Tết, hay dịp cuối
niên khoá. Trịnh Hoài Đức không cần đợi dịp
nào cả. Tờ nội san “ Bút Ngày Xanh” in
ronéo , dự tính ra định kỳ, hoàn toàn
không có một phương tiện nào. Không biết
còn ai giữ được một tập nào không nhỉ ? Còn
ai nhớ nội dung chăng ? Về phần tôi, cho đến nay tôi
có viết rải rác một số bài đằng báo
và có tật quên hết những gì mình viết
mà chỉ nhớ văn người. Bởi vậy, khi có người nhắc
lại bài “Dâu Bình Dương” Thì tôi
mới nhớ mình đã cho in một bài trong nội san
“Bút Ngày Xanh”. Những tôi hoàn toàn
quên nội dung bài đó không rõ
dài ngắn, hay dở ra sao ? Hồi tưởng mãi thì
hình như tôi kết luận bằng mấy chữ “…… vẽ dịu
dàng và tha thướt của Bình Dương”. Thì
phải. Mô tả vẻ đẹp của Bình Dương bằng mấy, từ ngữ “ Dịu
dàng và tha thướt”,tôi không rề chỉ cố viết
cho bóng bẩy,chải chuốt.Tôi thật sự cảm nhận vẻ đẹp
đó,qua cái nhìn riêng của
tôi,vào những năm cuối thập niên 1950.
Độ mười năm sau,có một cuốn phim khá
nổi tiếng hình như quay nhiều cảnh ở Bình Dương:đó
là phim “Người Đẹp Bình Dương”.Danh từ “người đẹp
Bình Dương” Trở nên rất phổ biến. Người ta tưởng tượng ra
đất Bình Dương là xứ sở của người đẹp. Hồi đó,
ngồi trong một quán cà phê vỉa hè Sài
Gòn, rải rác ven những đại lộ lớn quanh khu vực Bến
Thành, thoáng thấy một thiếu nữ với nét mặt thanh
tao, “dịu dàng và tha thướt” đi qua, người ta bảo nhau:
- Này một người đẹp Bình Dương.
Dần dần, Bình Dương không còn
là một danh từ, một địa danh nữa. Bình Dương trở
thành một tỉnh từ, chỉ đặc tính vẽ đẹp của một thiếu nữ
quê quán ở đâu đó cũng được, chứ không
cần phải là sinh trưởng tại Bình Dương.
Hồi tưởng lại, những năm xa xưa ấy, tôi
đã có một niềm vui nho nhỏ khi nghe quanh tôi
thành ngữ “ Người Đẹp Bình Dương” Được nói đến,
trong những dịp chuyện trò vui vẻ giữa những người bạn trẻ.
Tôi vui vì tôi đã ở, đã làm
việc, đã sống với lớp học sinh thơ ngây, lớp tuổi học
trò ở Bình Dương. Tôi đã viết về Bình
Dương, đã ca ngợi Bình Dương, đã biết và
nhìn ra nét đẹp “Dịu dàng và tha thướt” Của
Bình Dương từ hàng chục năm trước.
Nhưng thời gian cứ trôi đi. Cuộc sống hối hả,
đầy biến động đã đẩy lùi hình ảnh Bình
Dương cũng như nhiều hình ảnh khác vào ẩn nấp
đâu đó, trong tiềm thức tôi. Cho đến gần đây,
có người cho tôi biết vài học sinh Bình
Dương cũ, sau trở thành nhà giáo, đã lấy
một số đoạn văn tôi viết về Bình Dương để làm
bài giảng văn cho các lớp trung học. Có người
còn nhớ và đọc thuộc lòng vài đoạn văn
đó. Khi hay biết mấy chuyện này, tôi đã thực
sự bồi hồi cảm xúc. Tôi không bao giờ tưởng tượng
và mơ ước rằng những ý nghĩ, tình cảm tôi
ghi vội trên giấy ngày nào đã được
đón nhận, sử dụng và in ấn trong ký ức một
cách ưu ái đến như vậy, một cách bền bỉ và
sâu đậm đến như vậy. Phải rất bền bỉ thì mới không
bị khoảng thời gian gần 40 năm làm tan rã trong
lãng quên. Phải rất sâu đậm thì mới
không bị phai mờ bởi những thăng trầm khắc nghiệt, những
quá độ của nỗi vui buồn mà ai cũng phải trải qua
hàng mấy thập niên. Cần dài dòng như vậy
thì mới làm nổi bật niềm xúc động của tôi.
Xin gửi ở đây một lời cảm ơn chung những ai đã hiểu
tôi và đã yêu tôi.
Khi nói về những người làm văn thơ, cổ
nhân ta đã có câu đại khái như sau :
“Thế gian nghĩ cũng nực cười
Văn minh mới đẹp, vợ người mới xinh”
Hai câu này có hai ý. Thứ
nhất là “Chỉ có văn của mình mới đẹp” Ai đã
làm thơ viết văn thì có thể đồng ý lắm lắm.
Trước hết là ngâm, là đọc, là rung
đùi, đắc ý. Sau đó, là mừng rỡ thấy
bài mình gửi được báo đăng. Vội vàng chụp
in lại nhiều bản cho bạn bè, ngồi nhà chờ đợi lời
phê bình, khen ngợi “Chỉ có văn mình
là đẹp” thôi mà!
Nhưng tôi thì hơi khác.
Tôi nghiêm khắc với chính tôi , đôi khi
tôi thấy văn xuôi của tôi tạm được. Còn thơ
của tôi thì quá tệ, cho nên, như ở trên
đã nói, tôi chỉ nhớ thơ văn người khác
mà quên hầu hết các bài tôi viết, kể
cả những bài đăng trên báo. Bởi vậy tôi
còn vui hơn nữa khi biết rằng văn của mình được hiểu,
được sử dụng, được nhớ.
Còn về ý thứ hai cả hai câu thơ
trên, “Vợ người mới xinh” Cổ nhân có nhận xét
thật sâu sắc. Quả đúng là thế gian nực cười thật,
mâu thuẫn thật, không cho bất cứ cái gì
mình có là đẹp tất cả đâu! Ai viết thơ văn
cũng tự cho mình là “ hay về cả ý lẫn lời” Nhưng
ít khi phân tích về cái đẹp của vợ
mình. Đến chỗ đông người, dù có vợ kè
kè bên cạnh, khi thấp tháng thấy một bóng
dáng “Dịu dàng tha thướt” Là phải cố nhìn
với ý nghĩ :
- Xem cô ta, bà ta mặt mũi ra sao ?
Rất nhiều lần, câu tự trả lời vẫn hàm
ý : “ Vợ người mới xinh” Câu chuyện ngoại tình của
ông Hoàng Charle và bà vợ “Sắc nước hương
trời” Ở bên Anh là một thí dụ có thể coi
là vượt cả thời gian và không gian.
Nhưng còn tôi, tôi đã
không “Nực cười” Như thế gian, tôi không cho thơ văn
tôi mới là đẹp, vậy thì tôi cũng không
thể cho vợ người mới là xinh. Nói ngược lại tôi chỉ
thấy có vợ tôi mà thôi, có đúng
không ? Tôi không trả lời câu hỏi này
mà xin kể cho các Bạn một câu chuyện tâm sự
của vợ chồng tôi.
- Anh muốn tụi mình có một đứa con
gái. Ngoài những nguyên nhân tình cảm
bình thường của mọi cặp vợ chồng muốn có con gái,
Anh còn có một ao ước riêng. Anh muốn rằng, sau
này, khi chúng mình huống tuổi, anh vẫn còn
được thấy hình ảnh của Em hồi còn là một thiếu nữ,
qua hình ảnh của con gái chúng ta lúc ấy
đã trưởng thành.
Tôi không tin rằng những người
bình thường ở thế gian này cũng có ý nghĩ
độc đáo và cực kỳ lãng mạn như của tôi.
Và như thế, hình như tôi đã lại có
trả lời các bạn rồi.
Tới đây tôi đã đi quá xa
câu chuyện về báo chí, về nội san, về bài “
Dân Bình Dương” của tôi thuở nào. Nguyễn
Tuân ngày xưa gọi những bài bút ký
của ông là tuỳ bút, sau này gọi là
“Ký”. Bài bút ký này của tôi
quả thật là một bài tuỳ bút. Tôi đã
để dòng ý tưởng tự do đi đâu thì đi, để cho
ngòi bút được tuỳ ý lang thang vô chủ
đích – nhưng lang thang xa quá rồi thì cũng phải
trở lại với trường xưa.
Ngày ấy, ở Bình Dương, tôi
đã viết về Bình Dương với bao nhiêu niềm xúc
động dạt dào. Ngày nay, ở một chốn không gian
khác hẳn, mịt mù và xa lạ, tôi còn
viết về quê hương không ? Vẫn còn, và sẽ
còn. Nhưng tôi nhìn quê hương bằng cặp mắt
bao quát hơn, tôi nghĩ về quê hương bằng những
ý nghĩ dạt dào thấm thía hơn. Tôi
không viết về một địa phương nào đó nữa,
không về sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng.
Không riêng về trái măng cụt Thủ Dầu Một, về nước
mắm Phan Thiết, về hoa đào ở ngoại ô Hà Nội …
Tôi chép lại dưới đây một đoạn
trong một bài viết của tôi được đăng trong báo ở
đây, vài năm trước. Trích đoạn này là
lời một người cha thủ thỉ với đứa con trưởng thành ở nước
ngoài :
- “Mai này, con sẽ hiểu. Đất nước không
chỉ là núi cao, sông rộng, tiền rừng, bạc biển. Đất
nước còn là những gì nhỏ bé, bình
thường. Như một hạt đậu phọng vương vãi đâu đó
còn sót lại trên cánh đồng mầu. Như một con
bướm trắng chập chờn trên nụ hoa cải vàng chớm nở,
còn ẩm ướt mưa bụi đầu Xuân.
“Một mai này, con sẽ hiểu. Con sẽ được học
hỏi về những kỹ thuật khoa học tài tình, những áng
văn chương tuyệt tác xứ người. Con sẽ được thăm nhiều cảnh
trí vĩ đại, nhiều kiến trúc to lớn, quan cổ kính
hoặc tân kỳ. Con sẽ được ăn phở, ăn bánh cuốn, ăn
chè khoai… ở Pháp, ở Mỹ, ở Úc…Nhưng con cũng rất
cần được nhìn cái cối xay lúa, cái
võ, cái dậm… của tổ tiên xưa để lại. Con cũng cần
đọc và hiểu thấu Truyện Kiều hay cung Oán Ngâm
Khúc…Con cũng cần biết ý nghĩa nét kiến
trúc của một ngôi chùa rêu phong lưng chừng
một trái đồi nào đó ở miền Trung Châu đất
Bắc. Con cũng cần biết thưởng thức tô phở Sài Gòn
trong không khí và âm thanh thành phố
ồn ào và đông đúc đó. Hoăëc
bún bò Huế tại Huế, hoặc bánh tôm cổ ngư tại
một quán bên Hồ Tây Hà Nội. Hoặc nước
chè tươi trong một cái bát sành ở một
quán nước dưới gốc đa, bên một bến đò Sông
Hồng, Sông Thương. Tất cả những gì cha vừa kể, dù
quen quen, dù xa lạ, đều có một cái chung,
cái chung đó gọi là Việt-Nam, con ạ !”…
Đến đây, tôi thấy bài tuỳ
bút này có thể tạm ngưng sau khi tôi trả lời
một câu hỏi mà rất nhiều người đặt ra.
- Bao giờ trở về thăm quê hương ?
Vâng, nếu tôi đã có thể
dài dòng về “ Trường xưa trong trí nhớ” thì
hiển nhiên về thăm lại quê hương nói chung, trong
đó có Búng, có Lái Thiêu, Thủ
Dầu Một, những địa danh mộc mạc nhưng thân mật và gần gũi
là một chuyện cần được đặt ra.
Tưởng nên nói chi tiết đôi
chút để trả lời câu hỏi “ Về thăm quê hương”
này.
Tôi sinh ra ở Cẩm Khê, một địa danh
còn ghi lại trong sử sách, nơi hai bà Trưng hi
sinh vì không muốn lọt vào tay giặc.
“… Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
chị em thất thế phải liều với sông…”
Cẩm Khê là một làng Trung Châu miền Bắc nước
ta. Về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn lại là một địa danh
lẫy lừng như vậy, tôi hiển nhiên không thể bỏ qua.
Nhưng nguyên quán của tôi lại ở một làng ở
châu thổ Sông Hồng, nơi có mồ mả ông cha.
Tôi lại học hành ở Hà Nội, thời thơ ấu ở đất Phong
Châu.
“ Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng
quên …”
Toàn là những nơi chốn gợi nhớ, gợi
thương, trải rộng nhiều nơi xa nhau trên miền Bắc.
Còn về thời gian làm việc, tôi
đã sinh sống rải rác ở nhiều địa phương từ ngoài
Trung cho đến trong Nam, nơi nào cũng có nhiều kỷ niệm
đẹp, đẹp nhất là ở Bình Dương như đã nói,
và không thể ai chối cãi được. Nhưng tôi vẫn
muốn đến, thăm hết, chuyện trò, hỏi thăm tất cả. Một cuộc
hành trình dài Bắc chí Nam như vậy
không thích hợp với một người lớn tuổi mà lại mang
một căn bệnh hiểm nghèo mà 6,7 năm nay. Chỉ riêng
một chuyến bay về Việt Nam cũng trên sức chịu đựng của tôi,
trong một tương lai gần. Còn vài năm nữa, biết đâu
sức khoẻ tôi chẳng khả quan hơn…?
Tới đây, bút ký này
có thể chấm dứt. Nhưng giống như người có bạn đến thăm,
khi chi tay còn bịn rịn, tiễn chân đến tận cửa xe
mà còn chuyện chưa nói hết, tôi lại muốn đưa
ra một hình ảnh nữa.
Tôi muốn nhắc đến niềm ao ước có con
gái của vợ chồng tôi. Ước mơ đó không
thành sự thực, vì chúng tôi chỉ có
hai con trai. Lúc huống tuổi, tôi đã không
được nhìn thấy dáng dấp thiếu nữ mảnh khảnh, nhanh nhẹn
và tươi cười rộn rã của người bạn đời trăm năm của
tôi, qua hình ảnh của người con gái mà
chúng tôi không bao giờ có. Nhưng tôi
không buồn. Không buồn, vì chẳng có
hình ảnh hiện thực thì tôi tưởng tượng. Những người
bạn Trịnh Hoài Đức thuở nào hãy hình dung
và lưu giữ hình ảnh tôi như là hình
ảnh một người thầy học cao và gầy, bốn mươi năm trước, trong lớp
học, có một lối giảng bài dễ hiểu, đôi khi văn hoa
một chút, và ngoài lớp học thì thân
mật cởi mở như một người anh lớn tuổi. Còn tôi, tôi
không nhìn các bạn như những người trung niên
đã có chồng, có vợ, có con, cháu,
tay bồng tay mang. Tôi muốn thấy trước tôi những nam, nữ
sinh rạng rỡ ánh mắt, hồng hào đôi má, im
lặng chăm chỉ trong lớp học và ồn ào vui đùa,
trò chuyện ngoài sân trường.
Và như vậy, tái ngộ thì rất tốt
, mà không tái ngộ thì cũng tốt thôi
./.
NGUYỄN ĐỨC CẨM