Trên Sông Khói Sóng

Nguyên Thảo

(Viết tặng Thầy học, bạn bè và những người thuộc tàu PB. 959,
Và những ai tha hương đã có lần nhìn một dòng sông).


Tôi nhớ lần đầu tiên tôi xa nhà là lần tôi bắt đầu bước chân vào trường trung học. Vì vốn dĩ thuộc thành phần mà người ta gọi là "học tài thi phận", tôi đã rớt trong cuộc thi tuyển vào lớp Đệ thất của trường trung học Trịnh Hoài Đức vào năm ấy, mặc dù ở lớp nhứt trình độ của tôi thuộc về loại rất khá. Không ai ngờ tôi lại rớt, nhưng đối với tôi, tôi cảm thấy mình quá sợ sệt lo âu khi bước vào phòng thi, đó là yếu tố khiến cho tôi không thể vượt qua được kỳ thi cộng với bài luận văn kém cỏi của mình, thường chúng bị lạc đề hay đúng hơn triễn khai quá xa đề.

Tôi cảm thấy khá buồn và ba tôi lại cũng buồn! Ông ráng tìm và xin cho tôi vào trường nào mà sang năm tôi có hi vọng thi dễ đậu. Ông cố chạy xin cho tôi vào trường Cộng Đồng học lại lớp tiếp liên để sang năm thi vào trường Trịnh Hoài Đức dễ hơn vì Ban Giám Hiệu của trường Cộng Đồng cũng đang là Ban Giám Hiệu của Trường Trịnh Hoài Đức. Học được chừng hơn nửa tháng, bạn bè kháo nhau xin về trường An Mỹ học Đệ thất trường tư của Ông dân biểu Trần văn Trai vì có tin Ông Trai đang vận động biến trường An Mỹ thành trường công thuộc chi nhánh của trường Trịnh Hoài Đức. Thế là bạn bè rút lần khỏi trường Cộng Ðồng, tôi về nói với ba tôi. Ba tôi quyết định cho tôi về trường tư An Mỹ để học, nhưng phải đóng tiền trường mỗi tháng.

Thế rồi vẫn chưa yên! Một ngày kia những đứa bạn được tin trên tỉnh mới đang tuyển học sinh thi vào lớp đệ thất của trường Trung học Phước Thành thuộ
c tỉnh mới Phước Thành mới mở. Tôi vẫn lặng thinh, nhưng ba tôi đã đi theo những đứa bạn của tôi viết đơn, ký tên thay tôi và đã nộp đơn rồi. Tới ngày thi cả mười mấy đứa học chung trường làng xúm nhau khăn gói lên đường đi thi. Thi ở mãi quận Tân Uyên, tức là địa danh Thủ Đồng Sứ ngày xưa mà đã có lần tôi ru em tôi ngủ bằng câu hát mà bây giờ tôi không nhớ hết chỉ nhớ được là "...về chợ Thủ bán hũ, bán ve. Bán bộ đồ chè, bán cối đâm tiêu".

Tới ngày có kết quả, chúng tôi đậu được cũng khoảng gần mười đứa. Thế là ngày nhập học chúng tôi phải đi xa nhà. Ấy là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi đi ở xa.

Trước ngày nhập học mấy hôm, ba tôi nhờ người đóng cho tôi một cái ghế bố với các trụ giăng mùng và tôi chuẩn bị khăn gói, quần áo, tập, cặp sẵn sàng cho chuyến đi học xa.

Từ sáng sớm ba chúng tôi gồm bốn người dẫn năm đứa con đón xe đò đi lên Tân Uyên. Sau hơn một giờ đồng hồ chúng tôi đã đến bến xe trước đầu chợ. Ba chúng tôi tìm nơi gởi tạm đồ đạc, rồi mới dò hỏi nơi trọ. Hỏi mướn nhà thình lình như thế nầy không là chuyện dễ, mà kiếm nơi trọ cho năm đứa con nít học trò lại khó hơn. Nhưng cũng may, trong thời gian ba chúng tôi dẫn chúng tôi đến chùa hỏi ở tạm một thời gian rồi tính sau, thì trời lại đổ cơn mưa. Trong lúc ấy có bà đi chợ về ngang bị mưa lớn quá nên vào đụt mưa. Sau khi biết chuyện bà sẵn sàng cho chúng tôi về nhà bà ở trọ không lấy tiền.

Sau khi căn dặn những điều cần thiết xong ba chúng tôi cám ơn bà Út chủ nhà và lên xe trở về làng quê. Chúng tôi gồm mấy đứa nhỏ quây quần với nhau lo soạn sách vở, sắp xếp mọi thứ của cá nhân rồi bắt đầu chuẩn bị nấu cơm chiều.

Khoảng thời gian buồn nhất cho kiếp sống xa nhà là khi màn đêm bắt đầu buông xuống, trời mù mù, cảnh mờ mờ xa dần, trời hiu hiu lạnh cái lạnh của rừng hòa lẫn của đồng rung chung quanh, những nhà cheo leo trong xóm đã lên đèn. Ánh đèn vàng chập chờn khiến mình càng buồn hơn. Tiếng ếch nhái lại nỗi lên. Chúng tôi vào nhà trãi ghế bố, giăng mùng soạn đi ngủ sớm để ngày mai nhập học. Lòng có nhiều nỗi lo. Muốn ngủ nhưng không tài nào ngủ được, cứ thao thức nhung nhớ một cái gì rồi nước mắt tự dưng dâng trào. Nằm yên trên ghế bố, úp mặt vào gối mà nghe lòng mình thổn thức. Những đứa bạn tôi cũng vậy, họ cũng đang thút thít như tôi. Đó là lần đầu tiên chúng tôi mới biết đến nhớ nhà!

Ban ngày thì bận rộn đi học, lo việc cùng nhau nấu nướng, hoặc giúp việc lặt vặt phụ chủ nhà để gọi là đáp lại ân nghĩa, tình thâm. Ban đêm thì lo học bài cho sáng hôm sau. Nhưng chúng tôi cũng vẫn có thời gian để ngồi mà buồn, nỗi buồn nhớ nhà mông lung. Có những chiều khi mặt trời sắp lặn, khuất bên kia ngọn đồi Bình Hóa, chiếu lên không những tia nắng vàng ững, rồi dần tắt lịm với màn đêm. Nhìn vào bìa rừng hướng Ông Đông Bà Tri, những mãng khói lan tỏa lưng chừng mờ mờ, trắng đục trong âm vang của chim kêu hoặc ếch nhái mà đứa nào mắt cũng buồn vời vợi. Ôi! Nỗi nhớ nhà sao mà nhanh chóng đến và thâm trầm quá vậy! Chúng tôi chỉ xa nhà có mấy ngày trong một tuần lễ thôi mà! Thế nhưng, chúng tôi cũng được tận hưởng những giây phút gọi là "nhớ cố hương"! Rồi với cảm giác, sự bồi hồi ấy mà tôi đã hiểu được tâm tình của những tác giả khi học đến các bài kim văn trong các giờ giảng văn trong bài "Nhớ cố hương" của ViTa trích từ "Mây Ngàn" với cánh cò vụt bay lên từ cánh đồng khiến tác giả nhớ đến hình ảnh "Cố Hương"; hay trong bài "Trường Giang" của Huy Cận "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" mà Thầy dạy giảng văn đã đưa về điển tích bài "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu: "Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu" và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã dịch hai câu nầy như sau: "Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai". Chúng tôi được tận hưởng sự nhớ nhung ấy trên con sông Đồng Nai vào những chiều hơi lành lạnh, khi bến sông còn ít người tắm, mặt nước chiều tối không nổ
i sóng nhiều nữa, nhìn bên kia sông dưới bóng những cây dừa là trại cưa thuộc cù lao Bình Hưng, rồi nhìn lại mặt sông những khói tỏa mù mù từ mặt nước bốc lên, đúng là "Yên ba giang thượng" khiến lòng mình bùi ngùi lại nhớ làng quê. Nhìn về hướng Tây chúng tôi còn định hướng được thôn xóm của mình vẫn còn hơn là "Nhật mộ, những lời thêu dệt về những chủ nghĩa đem lại công bằng, hạnh phúc và kể cả các chủ thuyết đại đồng cho mọi người và nhân loại hương quan hà xứ thị?".

Hai ba năm sau chúng tôi cũng quen dần, quen thầy quen lớp. Mọi người trở nên thân thích và sự nhớ nhung làng quê không còn là một vấn đề hằn sâu trong tâm khảm nữa. Năm cuối cùng tôi đủ sức lớn và đi xe đạp mỗi ngày cùng với bạn bè, không còn ở trọ.

Cách nhiều năm tôi lại đi về thành phố trọ học. Cũng nhìn khói sóng trên sông rạch sống lại những bồi hồi năm xưa, nhưng bây giờ tôi lại trưởng thành hơn nên không còn cái cảnh úp mặt vào gối mà "nghe lòng mình nhỏ lệ". Tôi lại được thêm một lần đi xa khi ra trường về quận Dầu Tiếng để nhìn khói sóng trên sông mà hướng về làng quê để nhớ, ít nhất cũng là trong những ngày tháng ban đầu.

Thế rồi với thời cuộc đưa đẩy, tôi đưa gia đình đi Vũng Tàu cùng với nhà trường vào năm cuối cùng. Tôi không hiểu tại sao lúc ấy tôi nhìn ra biển xa nhìn theo những chiếc tàu ra khơi đánh cá, chúng nhấp nhô trên sóng biển đến khi mất hút không còn nhìn thấy mới thôi. Ai ngờ đó lại là lần sau cùng tôi đứng trên bờ nhìn ra biển, để rồi vào tháng 7 tôi lại đi trên tàu ra khơi nhìn lại vào bờ. Tôi nhìn những ngọn núi tại bờ biển Vũng Tàu xa và mờ dần mà trong lòng lại ngậm ngùi, hai dòng nước mắt bắt đầu tuôn rơi. Tôi đi lần nầy nếu mà trót lọt thì không biết đến bao giờ mới nhìn lại được quê hương. Tôi cố mở trí nhớ rộng ra và làm sao thu tóm được hình ảnh đại diện cho quê cha đất tổ được hằn sâu vào ký ức. Sau những ngày lênh đênh trên mặt biển trong đói, khát, gian nguy tôi thật sự đã xa quê hương thật rồi! Bỏ lại cha mẹ, vợ con thân thuộc và tất cả những kỹ niệm thời ấu thơ, những bạn bè đồng cam cộng khổ trong từng hoàn cảnh. Tôi là một kẻ đang khởi đầu cho mình một kiếp lưu vong. Đôi lúc tôi ngậm ngùi vì đâu tôi phải ra đi sau khi đất nước được thanh bình, chiến tranh hoàn toàn chấm dứt. Trong tôi đang dần hiện lên một sự hoài nghi to lớn nhất đối với xã hội loài người! Tôi hoài nghi mọi triết thuyết xã hội!... Những chiều nhìn mặt trời dần lặn trên biển cả mênh mông, những đám mây đen che phủ một khoảng bầu trời, nhìn những cơn sóng nhỏ nhấp nhô, tôi ngồi trên boong chiếc tàu cây nhỏ bé với nỗi buồn vô hạn!

Cuối cùng chúng tôi đã vào được bến bờ Mã Lai, ở cửa biển của vùng Dungun lúc nửa đêm. Sáng hôm sau được nhìn khói, sóng trên sông lần đầu tiên nơi đất khách quê người. Qua các thủ tục hành chánh, chuyển tiếp chúng tôi 123 người lớn nhỏ được đưa qua đảo Bidong để chờ gặp các phái đoàn đúng vào ngày kỷ
niệm ngày cưới của tôi ở vào 13 năm về trước.

Ở trên đảo cứ mỗi chiều bước lên Ðồi Tôn Giáo để ngồi trên mõm đá nhìn vào đất liền, nhìn khói sóng trên biển, nhìn những đàn cá ngừ vùng vẫy nước biển văng tung tóe và bên trên những con hải âu, loài chim biển đang nhào xuống như làm một cuộc chiến tranh giữa cá và chim. Rồi sau đó lòng lại ngậm ngùi nhớ làng cũ, quê xưa. Ở đó cha mẹ, vợ con đang lo lắng không cùng. Và ở đó mọi người đang phải vật lộn với kiếp sống lầm than từ năm nầy sang tháng khác chẳng biết đến bao giờ. Tôi chỉ biết trách người tạo nên một lý thuyết thật là đẹp là mộng mơ, là một thiên đàng; nhưng thiên đàng ấy đầy dẫy những thương đau xương máu và hận thù. Như thế tôi chắc thiên đàng kia không phải là một thiên đàng hạnh phúc vì hận thù luôn mãi là hận thù tiếp nối và hận thù khó thể mờ phai trong một sớm một chiều.

Sau gần chín tháng, tôi rời trại chuyển tiếp Sungei Besi cùng hơn 30 người để đáp chuyến bay về thành phố Adelaide của tiểu bang phía nam nước Úc để chọn nơi nầy làm quê hương; quê hương chính của tôi trở thành quê hương trong trí nhớ. Và ở đây tôi lại được ngồi nhìn khói sóng của dòng sông Torrens nhỏ bé vào những buổi chiều tà hay lắm lần tôi được nhìn khói sóng của dòng sông Murray để trầm ngâm đọc khe khẻ câu thơ "Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu" hay ngâm cho mình nghe nho nhỏ "Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai".

Tôi ngồi mãi đến khi sương bắt đầu xuống lành lạnh mới lần ra xe để trở về nhà. Chân bước đi mà lòng buồn man mác...!
                                                                                          
Nguyên Thảo