Tôi
Đi Học
Từ Minh Tâm
"Hằng năm cứ vào cuối
thu, lá ngoài đường rụng
nhiều và trên không có
những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại
nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi
tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu
và gió lạnh, mẹ tôi
âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng
dài và hẹp. Con đường nầy tôi đã
quen đi lại lắm lần, nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ.
Cảnh vật chung quanh
tôi đều thay đổi, vì chính trong lòng
tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi
đi học.".
Tôi không biết
nhà văn Thanh Tịnh làm sao
nghĩ được những ý
tưởng thật hay khi nói về ngày đầu tiên đi học,
còn tôi, tôi không có những
ý nghĩ như vậy vì tôi phải bị ăn roi mây của
ông ngoại tôi, tôi mới chịu tới
trường, dĩ nhiên là vừa đi vừa khóc. Nhưng
tôi không trách ông tôi, vì nhờ
những trận đòn đó mà ngày nay tôi
nên người .
Năm mẫu giáo của
tôi thì không có
gì để nói, chỉ có một điều là lớp tôi
học nằm
ngay Ty Thanh Niên sau nầy, trước nhà thờ Bình
Dương. Cô tôi đẹp và hiền nên
tôi học hành đàng hoàng, cuối năm lại
có phần thưởng. Chỉ
có một điều tôi còn nhớ tới bây giờ là
hôm lớp được lịnh qua Trường Nam Châu
Thành để chích ngừa đậu mùa, chỉ có một
mình tôi "cà chớn"` nhứt định không
đi, làm cho cô tôi rất khó xử, bỏ tôi
lại trường một mình thì không tiện, mà
tôi thì nhứt định khóc chớ không đi . Chiều
về nhà, ba tôi cũng không rầy,
nhưng anh chị trong nhà "hù" tôi, là nếu
không chích ngừa thì bị mặt rỗ xấu
lắm .v.v. khiến tôi phải nói với ba tôi chở đi
chích trên nhà thương. Thật là
cực khổ.
Vào lớp năm (tức
là lớp một sau nầy), tôi học ở
trường Nam Châu Thành,
gần nhà thương, chưa vào học thì
đã bị "hù" là mấy thầy ở đó "dữ" lắm,
nào là bắt quì trên vỏ mít,
đánh học
trò bằng thước bảng .v.v.. thật ra, trường Nam Châu
Thành, kỷ
luật nghiêm, học sinh ngoan, ít khi có trường
hợp phạt nặng. Ngày nay tôi
chỉ còn nhớ tên mấy thầy nổi tiếng như thầy Sử nhà
gần trường, thầy Phúc ốm mà "khó", thầy An "mắt
kiếng", thầy Hoe (hay Que ? ) . .. đến
năm
lớp nhì vì
trường đông quá nên chúng tôi phải đi
học tận trong trường chi nhánh, gần văn
phòng quận Châu Thành (Ngã Ba Cây Sao
Quỳ). Từ tỉnh ra trường cũng
khá xa, ngày ngày phải đi học hai
buổi, ba má dặn phải đi ngoài đường lớn, nhưng
tánh tuổi
trẻ ham vui nên tôi đi học toàn bằng đường băng rừng
phía sau trường về nhà qua
ngỏ Bưng Cải, hay vòng qua Chùa
Hội Khánh qua ngả Nhà Thương... Năm lớp nhì
tôi học thầy Bình, năm lớp
nhứt học thầy Vân là hai thầy
dạy hay và hiền nên cuối năm lớp nhứt tôi đậu
vào lớp đệ thất Trường Trịnh Hoài
Đức tương đối dễ dàng.
Hiệu Trưởng trường Trịnh
Hoài Đức lúc tôi học
là thầy Nguyễn Trí Lục, ông còn
trẻ và đẹp trai. Năm tôi học đệ lục, lớp đang thiếu thầy
dạy Anh Văn. Một hôm
chúng tôi đang đứng chơi trước lớp, thì thầy Lục đi
lên cùng với một cô giáo
rất đẹp, và giới thiệu với chúng tôi cô
Liên sẽ dạy cho chúng tôi môn Anh Văn.
Thường thì giáo viên mới tới thì cứ
lên lớp dạy chứ đâu cần giới thiệu, trường
hợp nầy là ngoại lệ chăng ?. Sau khi
có cô giáo mới lớp
chúng tôi học Anh Văn siêng hẳn, vì cô
giáo dễ thương, hay cô dạy hay, hay cả
hai thì không biết, chỉ biết vài năm sau thì
cô lên xe hoa với ... thầy hiệu
trưởng.
Đến năm đệ tứ, chúng
tôi lại "học siêng" môn
sử địa, môn nầy do cô Hoàng Thị Đàn Hội
dạy. Cô người Huế nói giọng Huế rất dễ thương làm
"bọn trẻ"
mê mẩn tâm thần. Tiếc rằng cô dạy có một năm
rồi đổi về Sài Gòn. Nói chung các
thầy cô giáo Trịnh Hoài Đức
dạy rất hay, vì thường học giỏi
mới được bổ nhiệm về Trịnh Hoài Đức là trường gần
Saì Gòn nhứt so với các tỉnh
khác. Thầy Đặng Thanh Châu, Bùi Thế San (Vạn Vật),
thầy Trần Bá Hổ (Lý Hoá),
Thầy Nguyễn Minh Châu (Toán), Phạm Đức Liên (Sử
địa), Lê Tấn Lộc (Triết) ... là
những thầy dạy nổi tiếng cả ở Bình Dương
lẫn Sài gòn.
Hiệu Trưởng Trịnh
Hoài Đức sau thầy Lục là thầy Lê
Tấn Lộc, rồi Nguyễn văn
Phúc. Thầy Lộc là người đã
tổ chức nhiều sinh hoạt như cắm
trại Vũng Tàu, Chùa Hội Khánh.. Thầy rất gần gũi
với
học
sinh và có nhiều sáng kiến. Năm tôi học lớp
11, trường Trịnh Hoài Đức thực hiện
được một Đại Nhạc Hội mùa xuân và một chương
trình văn nghệ trên đài truyền
hình. Tất cả là nhờ tài ngoại giao của thầy. Đội
bóng
chuyền của Trịnh Hoài Đức dưới sự dìu dắt của thầy
ĐoànPhế từng đoạt nhiều
giải
thưởng trong tỉnh cả về học sinh lẫn người lớn. Đội bóng
đã từng hạ đội
Trường Công Binh nhân một ngày liên hoan ngay
trong Trường Công Binh Bình
Dương. Qua chương trình phát triển
sinh hoạt học đường
(CPS) do thầy Nguyễn trọng Nhượng phụ trách, chúng
tôi lại có dịp đi Đà Lạt cuối
năm lớp 11, nhờ đó thăm Nha Địa Dư
Quốc Gia và Trường Võ Bị Đà Lạt.
Ở Trịnh Hoài Đức,
chúng tôi không những
học
văn hoá mà còn
học được cách suy nghĩ như một người lớn, học cách "tự
học", và tham
gia các hoạt động xã hội như cứu
trợ nạn lụt, giúp đồng bào
chiến nạn từ Bình Long năm 1972 vào mùa hè
đỏ lửa.
Năm lớp 12 có lẽ
là năm "lộn xộn" nhất vì tụi
tôi học ban B (chỉ có
một lớp ban B duy nhất) nên đâm ra hơi kiêu ngạo. Học
thì rất giỏi (cuối năm đó có tới 4
người đậu vào trường Kỹ Sư Phú Thọ, 1 người đậu
vào
Đại Học Sư Phạm trong số 30
học sinh), sinh hoạt cộng đồng rất hăng, như đã quyên được
trên 5.000 đồng cứu
trợ nạn lụt Miền Trung, nhưng cũng dễ nông nổi.
Điển hình là vụ rải truyền đơn
chống thầy Nguyễn Bé Tám. Thầy
dạy nhạc nhưng về sau làm giám thị, đôi khi la rầy
học sinh hơi
quá đáng nên bị "mấy ông thần" lớp (12 B)
rải truyền đơn nói xấu. Vụ nầy phải hỏi Nguyễn Hoàng,
hiện ở Úc và Liêu Bữu Khương, hiện ở Mỹ thì
rõ. Năm đó thầy Phúc làm hiệu trưởng.
Ông chỉ họp cả trường lại rồi la rầy chớ không báo
cho cảnh sát vì chỉ là chuyện nội bộ. Hú
vía cho mấy ông "thần" học trò trẻ người non dạ.
Về giám thị,
tôi còn nhớ Trường Trịnh Hoài
Đức có một thầy Tổng Giám Thị rất siêng năng
là thầy Nguyễn Đức Viên (học trò gọi là thầy
Ba Viên). Thầy ở Sài Gòn
mà đi làm rất sớm. Thầy tới trường trước cả học sinh
và đứng ở văn phòng nơi chúng tôi vào
trường. Cô cậu nào mà thiếu phù hiệu hay ăn
mặc lôi thôi thì thầy nhắc nhở. Còn ai đi trễ
thì bị thầy gọi laị nói chuyện. Thầy không la rầy
gì nhiều nhưng bị đứng lại nói chuyện với thầy thì
cũng "quê" lắm. Vậy mà có một cô học sinh
(cô chớ không phải cậu, nhưng tôi quên
tên rồi) sáng nào cũng đi trễ và bị gọi lại
để nhắc nhở. Không biết cô ta có cố ý
làm như vậy hay không. Bây giờ nhớ lại chuyện nầy
tôi thấy thương thầy Viên quá.
Ngoài việc học
trường công, năm nào tôi cũng
đi học thêm. Lúc ở tiểu học thì
học trường Trí Đức, Văn An ... Trung học đệ nhứt cấp thì
học Bồ Đề (do thầy Nguyễn
Kim Long dạy toán). Trung học đệ nhị cấp thì học Nguyễn
Trãi (do thầy Phạm Ngọc
Em dạy Lý Hoá, thầy Võ Kim Lân dạy
Pháp Văn)... Học thêm có lợi là
giúp học sinh không quên bài trong kỳ
hè
và biết trước kiến thức sẽ học trong năm tới . Như tôi,
mùa
hè học toán thầy Long rồi thì khi vào học
chính khoá tôi
không cần học toán nữa mà vẫn có điểm cao,
còn học Pháp Văn với thầy Lân rồi thì
vô trường khỏi cần học cũng làm bài được. Năm 1972,
khi thi Tú Tài 2,
tôi làm bài Pháp Văn (sinh ngữ 2) được 19
điểm. Tất cả là nhờ công của thầy Lân.
Những năm trung học cũng
là những năm bắt
đầu biết mộng mơ,
biết thầm yêu trộm nhớ. Nhưng vì cái giấy hoản
dịch lúc nào
cũng như tấm bùa hộ mạng nhắc nhở học trò thời chiến
phải rán học nên ngay cả tình
yêu cũng phải hoản lại. Thêm
vào đó, học trò tỉnh nhỏ cũng nhát
hơn nên nhiều khi bâng khuâng mà không
dám nói. Đôi khi
chỉ vì một cái nhìn, một câu nói của
người bạn gái mình thầm thương mà thổn
thức, và nhiều khi nằm mơ thấy "nàng" với những yêu
thương thật nồng
thắm. Người đẹp trong trường và trong tỉnh Bình Dương ở
thập niên 1970 có: chị Xuân Mai, Minh Lan,
Xuân
Diệu, chị Lan (ở Lái Thiêu), Nguyệt (con ông chủ rạp
hát Bình Minh), Trương thị Tuyết Đông, Nguyễn hữu
Hiệp (con ông dân biểu Nguyễn Hữu Hào), Trần thị
Bạch
Vân, Võ
Ngọc Lan Chi, Thuỳ Linh, Lê thị Hoàng Mai (con ông
chủ
trại cưa Đồng Phát), Lê thị Phùng, Nông Thị
Ngọc Liễu, Lý thị Nhi, Hồ thị Liên Hoa... ... Mấy
cô nầy đã làm cho nhiều cậu trai như Từ Minh Thạnh,
Lê Quang Phước, Dương Tiểu Nam và bản thân người
viết ... phải thất điên bát
đảo vì thầm yêu trộm nhớ. Tình học sinh thật
êm đềm và thơ mộng nhưng ít khi thành.
Tôi thấy mấy cô ấy đẹp thì thích nhưng
không dám tỏ tình. Đúng là
nhát như thỏ đế. Mãi sau nầy khi gần tốt nghiệp đại
học tôi mới thật sự có người yêu, mà lại
không phải là người Bình Dương. Người
Đẹp Bình Dương đối với tôi đúng là chỉ
có duyên
mà không nợ ...
Nhớ lại những ngày
còn đi học, lòng tôi lại
nao nao về những tình cảm thời học sinh,
đồng thời mới cảm thấy đào tạo một con người
thật là khó khăn và tốn kém. Biết bao
công lao của cha mẹ và thầy cô đã bỏ ra
để cho ta có kiến thức như hôm nay. Viết những trang nầy
tôi kính dâng lên quý
thầy cô những lời cảm ơn chân thành nhất. Công
ơn của quý thầy cô, tôi sẽ mãi
mãi không bao giờ quên. Với các bạn hữu
ngày xưa, bây giờ chúng ta đã hơn năm ...
"bó" rồi. Nhắc lại chuyện xưa cho vui chớ chẳng có
ý
trêu chọc hay nói xấu ai. Do đó, nếu có điều
chi sơ suất mong các bạn thông cảm và đừng
có rủa kẻ hèn nầy là vô duyên
vì:
"Bạn lòng hởi, trong cuộc đời học sinh ai
không ghi một hình bóng ..."
(Lưu Bút
Ngày Xanh - nhạc của Thanh Sơn)./.