Tân Khánh: Quê Hương Thời Tôi Lớn!

Nguyên Thảo


Mỗi con người, ai cũng có một thời thơ ấu và thời thơ ấu đó gắn liền với quê hương của mình. Tôi cũng không ngoại lệ! Quê hương chính của tôi ở một xẻo đất nhỏ với vài chục gia đình gọi là ấp Phước Lương. Lạ một điều, ấp nầy là mũi nhọn thọc sâu vào trong bưng biền của xã Phước Thành giáp với xã Tân Phước Khánh, Tân Hóa Khánh và Thái Hòa, nó gần như cô lập với xã về mọi phương diện. Sự di chuyển và chợ búa, giao thông thường đi vào Tân Khánh qua ngõ Phước Lộc hay gò Sở, hàng tre dài.

Thời thơ ấu của tôi ở quê hương chính hay là quê nội không lâu và không có nhiều kỷ niệm, vì lúc ấy tôi còn quá nhỏ. Tôi chỉ nhớ mang máng cái dáng nhà của ông bà cố, cái đống gạch ngói vụn căn nhà của ông nội tôi mà tụi Tây đi bố đã đốt, và căn nhà không kín đáo mà ba tôi đã dựng lại để ở. Tôi không biết và không nhớ ếch, nhái, ễnh ương có kêu rang vào ban đêm ra sao? Nhưng tôi lại nhớ, nhớ rõ cái đêm trăng mà ba tôi đã đánh xe trâu để tản cư, rời bỏ ấp Phước Lương chuyển về nơi khác ở nhằm được yên ổn hơn. Đêm đó có cả bà út em của ông nội tôi nữa.

Tôi về quê ngoại chắc vào lúc ngoài ba tuổi, vì khoảng năm tuổi tôi đã ý thức được ít nhiều. Quê ngoại tôi là xã Vĩnh Trường. Bìa xóm trên là sân bay của sở Con Rồng ngày xưa mà quân đội Nhật đã phát triển lớn hơn. Bên kia sân bay và cánh đồng Bà Bèo là xã An Mỹ, Phú Hữu ở đầu ngoài nầy, còn đầu trong là xã Phú Chánh. Cánh đồng ấy ngày tôi còn nhỏ theo má và mợ ba đi sang xã Phú Hữu sao mà nó lớn và xa ơi là xa. Nhưng đến ngày tôi lớn về sau nầy nó chẳng xa là mấy! Và sau nữa, những nơi, con đường ấy là những đoạn đường tôi phải qua hàng ngày để đến trường Trung học An Mỹ.

Nhà ngoại tôi thuộc xóm dưới, băng qua hai gò mã, và một cánh đồng ruộng gò, lội qua suối thì đến xóm lò chén để ra chợ Tân Khánh. Chẳng có gì khó khăn cả, chỉ cách khoảng hai cây số mà thôi! Những vuông tre và những con đường làng đất đỏ bụi mù vào mùa nắng, cũng như lầy lội vào mùa mưa chạy xuyên vào ruột của những hàng tre hay bao quanh các hàng tre chạy vào mãi trong Tân An. Vĩnh Trường cũng tương đối là nơi khá an bình trong những cuộc chiến.

Nhưng tùy theo tình hình chiến sự mà người ta có được yên ổn hay không? Sự xung đột của hai phe “kháng chiến” và “thực dân” đôi lúc làm cho quê ngoại tôi trở thành nơi khó ở cho những người thanh niên; cũng như gia đình tôi phải bỏ quê nội chỉ vì bị Tây vào đốt phá cùng bắn pháo, oanh kích bất cứ lúc nào. Tản cư! Một danh từ quen thuộc trong thời chiến tranh. Ba má tôi quyết định dời về chợ Tân Khánh, lúc đó tôi lên bảy. Từ quê nội, về quê ngoại để rồi tôi lại được chọn nơi có nhà thương mình sanh ra để làm quê hương: Nhà thương của Bà Mụ Công ở xã Tân Phước Khánh!

Ba má tôi chuẩn bị khá lâu cho cái nhà nầy. Trước kia nó là con đường hẽm giữa hai cái nhà, nơi người ta qua lại để đi chợ, ba má tôi phải xin miểng hộp từ trong lò chén chở về đổ vào chỗ trủng, rồi đổ đất lên cho tương đối bằng phẳng để dựng cột, cất nhà, do đó khi nhà thành hình các mái chái bên hông của hai nhà hai bên nó vẫn còn hiện diện trong nhà của ba má tôi. Nhà trở nên âm u và hẹp lại do vấn đề như vậy.

Tôi không nhớ rõ, ba tôi cho tôi đi học vào lúc nào trong năm lên bảy nầy; học ở trường cây gòn do ông Thầy giáo Khai lập nên. Ông thầy giáo Khai ở trong khu riêng của người theo đạo Cao Đài, phía sau Thánh Thất đối diện với trường học qua con đường từ Thủ (Dầu Một) về. Ngày hai buổi ông từ trong ấy ra trường và về nhà. Ông Thầy giáo Khai dạy lớp Nhất, Thầy giáo Khòm (tại vì ông bị khòm lưng, chứ tên thiệt của ông là ông thầy giáo Giỏi) dạy lớp Nhì. Lớp Ba là thầy giáo Thăng, lớp Tư là Cô giáo Khai, còn tôi là lớp “chót bẹt” lớp Năm Đồng Ấu của ông Thầy giáo Sáu. Ở Tân Khánh lúc đó chỉ có trường Việt của ông Thầy giáo Khai và trường Tàu dạy tiếng Tàu của cộng đồng người Hoa Kiều, về sau nầy có Thầy giáo Chấn nhập cư Tân Khánh và mở thêm một trường tiếng Việt nữa. 

Khi xin vào học tôi đã bị chê là nhỏ, không biết là nhỏ con hay nhỏ tuổi và sau nầy ba tôi có kể lại là hay bị “mắng vốn” vì vào lớp tôi thường hay ngủ. Không biết tôi học với ông Thầy giáo Sáu trong bao lâu, nhưng sau đó thì tôi cũng được lên lớp Tư. Lúc bấy giờ người ta không dạy vỡ lòng bằng các sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư nữa, mà học theo quyển “Em Học Vần” thì phải. Cho đến bây giờ tôi hãy còn nhớ rõ hình dáng của ông Thầy giáo Sáu ôm bụng làm ra vẻ đau bụng trong bài “C-am Qu-ít Ng-ọt” khi ông nói về ăn quá nhiều; hoặc là ông làm kiểu cỡi ngựa chạy trong bài “Y-ên C-ỡi Qu-ất”. Một việc làm tôi nhớ nhất trong khoảng thời gian nầy là tôi bị “làm tội”. Một bữa nọ, đang ngồi học thì anh Tư Sơn, con Cậu Ba ở kế nhà, từ trên lớp Nhất của ông thầy giáo Khai xuống xin với ông Thầy giáo Sáu triệu hồi tôi lên gặp ông Thầy giáo Khai. “Gặp ông Thầy giáo Khai” tôi sợ lắm! Nhưng khi vào lớp bên cạnh bàn, ông thầy giáo Khai hỏi tôi: “Tại sao lấy cái kéo của thợ may bỏ vào cặp của thằng Bự”, tôi thành thật: “Dạ thưa Thầy, con đâu có lấy bỏ vô”. Ông hỏi tôi nhiều lần lẫn làm dữ, nhưng tôi đâu có làm việc đó. Cuối cùng, ông cầm kéo hù tôi: “Có hôn? Nói thiệt đi, không thầy đâm kéo vào cổ”, Tôi trả lời trong nước mắt ràn rụa: “Dạ thưa Thầy con hỏng có!”. Sau đó thầy cho tôi về lớp! Những năm đó gợi cho tôi nhiều kỷ niệm, ở lớp Tư của Cô giáo Khai có thằng Sinh em của ông trưởng đồn bót Cây Trắc ở trong Tân An thường hay hát cho tôi nghe vào lúc cuối giờ, nhưng nó sửa lời “tầm bậy tầm bạ”, sau đồn bị Việt Minh đánh, không biết nó còn sống hay chết. Rồi lớp Nhì của ông thầy Khòm với thằng Tư gà học “tối quá” nên bị đòn thường xuyên, và lần lần tôi cũng bò lên lớp Nhất nửa chừng thì đến năm hòa bình, bắt đầu vào thời kỳ mới. Sở dĩ, học trò học nhanh như vậy là vì học ngày hai buổi, gần như cứ mỗi nửa năm là lên lớp. Tôi và một số bạn bè không biết học giỏi hay dở nhưng khi đến lớp Ba lúc đó không có thầy dạy thì trường cho nhảy hết lên lớp Nhì, để rồi nửa năm sau đó lên lớp Nhất.

Đất nước hòa bình nhưng bị chia đôi, khi miền Nam có nhiều thay đổi từ Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm; đến truất phế Bảo Đại và Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì trường sơ cấp Tân Phước Khánh được thành hình đồng thời với các trường ở Hóa Nhựt, Phước Lộc, chiếu theo khai sanh mà học trò được nhận vào học trong lớp nào. Tôi trở về học lớp Ba với thầy Nguyễn Văn Hòa, cô Thọ dạy lớp Tư, thầy Hạ Ngọc Thơ ở ngoài Thủ vào dạy lớp Năm cũng là Hiệu Trưởng (Trưởng giáo?). Một số bạn bè trước kia, ai thích học ở Tân Khánh thì học, ai không thích thì chuyển ra học ở trường Cộng Đồng Dẫn Đạo Búng. Số đi cũng khá nhiều! Năm sau trường Sơ cấp Tân Phước Khánh biến thành trường tiểu học Tân Phước Khánh vì có lớp Nhì, số học sinh từ trường Hóa Nhựt (Xã Tân Hóa Khánh) dồn ra. Thầy Phạm Văn Trọng ở Lái Thiêu phụ trách. Năm này vừa học vừa văn nghệ tưng bừng, vì Thầy Trọng giỏi đàn Măng-Đô-Lin, và cô Thọ trổ tài dạy múa. Năm sau trường khá lớn, lớp Nhất chúng tôi học trên cơ sở trường mới trước rồi sau đó các lớp sau mới lên theo, cô Vũ Thị Hồng Ngọc người Bắc về dạy lớp Nhất chúng tôi, cô Nga dạy lớp Nhì, và Hiệu Trưởng là Thầy Nguyễn Văn Tâm từ Búng vào.

Đó là chuyện trong trường học. Còn cái “thời con nít” thì bao thầu ở nhiều nơi và nhiều trò. Bắt đầu lớn lên thì đi theo những người lớn hơn mà chơi. Mình làm “lon ton”. Những đêm trăng sáng chơi “u bắt mọi” hay “u” thì mình được phân công “u” trước để bị bắt và những người lớn có sức hơn “cứu bồ”, hoặc đồng lứa tuổi thì chơi “cốt kiếm” (trốn bắt), “bỏ khăn”, “rồng rắn”, hay ngồi nghe kể “chuyện ma” để tối không dám ngủ, vậy mà vẫn thích nghe kể. Tôi cũng đã từng theo phe nầy phe kia để chửi lộn, để làm tay sai cho bọn nó. Có lẽ thời con nít thích thú nhứt là đi dạo xóm làng, đi cùng các hang cùng ngõ hẽm, dẫn nhau thành bầy đi ra tận các nhà có trồng điều ở Phước Lộc, hàng tre dài, gò mã bịt bùng, hay lên tận Bình Hòa để “vặn” cắp hột điều về chọi đáo hột điều; có lúc đi đào dế, bắt cá lia thia về cho chúng đá chơi. Bưng biền, rừng chồi luôn được rảo qua, các cây trâm bầu, trâm bột vào mùa trái chín đầy tiếng la, tiếng kêu ỏm tỏi. Xong rồi về ghé vào cái mội nước nào đó để tắm. Từ mạch chú Khọt, đến mạch chú Rách, ông Ca, ngay cả mạch Chợ là mạch lớn nhất để cho cả xóm gánh nước về xài, nấu ăn cũng được nhào xuống để tắm, có lúc bị “dí” chạy cùng đường. Con suối con Tân Khánh khởi nguồn từ Lồ Ồ ở sân bay chạy qua Bình Hòa được tiếp tế do nhiều mội nước thành con suối khá lớn, nước trong, dọc đó có nhiều nơi trong mát, tắm rất thú vị. Có nơi sâu quá đầu người mà bọn con nít chúng tôi hay đùa giỡn, tập bơi lội. Qua sau năm Thìn bão lụt, suối cạn dần vì mưa lớn lôi miểng hộp, miểng chén dĩa xuống lấp mất độ sâu của dòng suối. Những guồng quay cối xay giả hồ để làm nước da của lò chén theo sự tiến bộ của cơ giới cũng mất dần làm vẻ nên thơ và hấp dẫn của Tân Khánh cũng lần lần bị kém đi. Tân Khánh ngày xưa không có ấp Bình Hòa, Bình Hòa thuộc xã Bình Chuẩn, còn khu Nhà Thơ cùa Bình Chuẩn ngày nay là của Tân Khánh ngày xưa chạy ra tới mãi miễu Bưng Cù chạy về Hố Đá, hàng Tre Dài. Xã Tân Khánh giáp với xã Tân Ba, Thái Hòa, Tân Hóa Khánh, Vĩnh Trường và Bình Chuẩn. Ngày đó, tôi không biết là có bao nhiêu ấp, nhưng khi dồn vào ấp chiến lược thì có ấp Khánh Thạnh, Khánh Lợi, Khánh Lộc, Khánh Long, Khánh Hội và Bình Hòa. Tôi chỉ nhớ được là như vậy mà thôi!

Cái sân bay ở bìa trên Bình Hòa và cánh đồng Bà Bèo ngày xưa là nơi tập của lính nhảy dù, có khi hàng tuần, chúng tôi phải đạp xe đạp thật nhanh để xem lính nhảy dù từ trong máy bay nhảy ra, và đếm coi được bao nhiêu người. Có lúc họ tập trận giả bắn súng nghe cũng rất ư là dữ dội! Lâu đến thời gian sau, không còn có lính và máy bay nhảy dù nữa; mà là nơi để máy bay chong chóng (Skyraider) tập oanh kích mục tiêu, từ bom nổ cho đến bom lửa. Trong thời kỳ nầy dân hai bên xã Vĩnh Trường, An Mỹ, Phú Hữu chết cũng nhiều vì tranh lấy ngù đồng hay cưa bom để lấy sắt vụn. Có người chết chẳng toàn thây Và từ ngày quân đội Mỹ chiếm vùng sân bay làm căn cứ của Sư Đoàn Không Kỵ số 1 thì con đường đi ngang sân bay bị ngăn lại và Vườn Bà Đôn bị biến mất. Bây giờ vẫn vậy, muốn đi lên Bình Dương, Phú Lợi phải đi đường vòng qua ấp Bình Quới (xã Bình Chuẩn) đường kéo dài thêm hai cây số nữa. Những khu rừng chồi, kể cả rừng Cây Chàm mà thuở nhỏ chúng tôi thường cùng nhau len lỏi để hái trái cơm rượu, trái giấy, trái táo gai, trái sim, trái mua... thường bây giờ đã biến mất nhường cho nhà cửa, hảng xưởng và người ta. Những gò mã, ngôi mộ lẽ loi ngày xưa làm con nít chúng tôi “sợ ma” vào những buổi trưa nắng chang chang cũng lần phải di dời, người chết phải nhường đất đai lại cho người sống.

Bây giờ Tân Khánh đã có rất nhiều đổi thay. Sau hơn 16 năm đi xa, khi trở về tôi không thể nhìn ra những nơi mà ngày thơ ấu, ngày còn ở nhà mình đã từng lội qua lắm lần. Nhìn mãi, nhớ moi ký ức để rồi: “Lạ quá, nhìn mãi mà không nhớ ra nỗi!”. Nếu mà Bà Trà, Ông Ất, Ông Giá mà có sống lại thì họ cũng không nghĩ là Tân Khánh mà một thuở họ đã lưu danh đã là như thế nầy!

          Nguyên Thảo,

15/12/09.