Sơn Núi
Huỳnh Hoàng Anh
Nguyễn Đức Sơn, cùng với thi sĩ Buì
Giáng là hai tên tuổi được nhiều người yêu thơ
cũng như giới nghiên cứu phê bình văn học nhắc đến khá
nhiều mỗi khi đề cập tới những khuôn mặt thi ca tiêu biểu của
miền Nam trước năm 1975:
_ “ Trong khoảng 1960-70 ở Sài Gòn có bốn nhà
văn-thuộc loại “hiện tượng của thời đaị”: Nguyễn Hữu Ngư, và Buì
Giáng( làm thơ khá hay) hơi khùng ( Nguyễn thỉnh
thoảng lên cơn, Bùi không), cả hai đều trạc năm mươi tuổi;
và Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn( đều trạc 35tuổi)”
Nguyễn Hiến Lê
( Hồi Ký)
_ “ Và riêng về thơ, thì tôi thấy có Nguyễn
Đức Sơn là lỗi lạc, Phạm Thiên Thư, đaị đức, là khác
thường…”
Tam Ích
( Khởi Hành số 16 ra ngày 14-8-1969)
_ “…Theo tôi thì ở miền Nam Việt Nam hiện nay chỉ có
vài thi sỹ : Buì Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Trần Tuấn Kiệt,
Vũ Hoàng Chương.”
Viên Linh
( Khởi Hành ngày 18-5-1972)
_ “ Về thơ ở trần gian này, riêng tôi khoái có
vài người gọi là bậc siêu thần bạt thánh côn
đồ lão tổ nhất là Buì Giáng, Nguyễn Đức Sơn và
Phạm Công Thiện. Ngoài ra hết.
Trần Tuấn Kiệt
( Sóng Thần ngày 5-5-1972)
Sau năm 1975, vẫn còn người nhắc đến ông, cũng với sự đánh
giá khá trân trọng như thế:
_ “Phê bình thơ trong thời chống Pháp không
đi vào bản chất thơ mà chỉ đi vào chính trị,
còn sau thời chống Mỹ thì lối phê bình tụng ca
quen thuộc không giúp gì cho thơ. Phê bình
đã bỏ quên thơ miền Nam sau 1954-đây là mảng rất
quan trọng. Thơ hiện nay vẫn nằm trong lãnh điạ mà thơ miền
Nam cũ tạo ra. Anh nhắc đến thơ Nguyễn Đức Sơn, Thanh Tâm Tuyền, Buì
Giáng…Thơ hiện nay đang cố vượt lên thơ miền Nam trước đây
và thơ chống Mỹ.”
Nguyễn Thụy Kha
( tạp chí Văn Học số 1-1994)
-“ Lẫn trong đám đông, có thể nhận ra một người ít
khi “xuống nuí”-nhà thơ Nguyễn Đức Sơn ( Sơn Nuí). Ông
đến, như một cách tìm về không khí một thời-khi
mà sự tự do cộng với sự không hài lòng với bản
thân, với thực tại đã làm nảy sinh những sáng
tạo thật bay bổng…”
Âu Lan
(Báo Thanh Niên, ngày 24-7-2001)
Sau năm 1975, người ta thấy Buì Giáng, nhà thơ tài
hoa, một dịch giã lỗi lạc, một giáo sư đaị học uyên bác
thưở nào, đi lên đi xuống rong chơi khắp vùng Sài
Gòn Chợ Lớn và giưã nắng cháy Sài Gòn
cát buị, giưã những cơn mưa nguồn buồn não nuột đến
thiên thu, giưã những bờ cỏ ra hoa, tiếp tục làm thơ
không ngừng để ca tụng trần gian diễm tuyệt. Trong văn học Việt Nam,
có lẽ ông là nhà thơ ca tụng trần gian và
cuộc sống này nhiều hơn ai hết.
Trong lúc đó thì Nguyễn Đức Sơn lặng lẽ đưa cả vợ con
từ giã phố phường Bình Dương để lên vùng nuí
đồi Phương Bối, nơi mà Thiền Sư Nhất Hạnh trước đây đã
ra công gầy dựng và ca ngơị trong tác phẩm Nẻo Về Cuả
Ý: “chim chóc hát vang rừng và ánh sáng
tràn vào thành từng vũng lớn”. Thế nhưng khi gia dình
ông đến đây, vùng đất này đã trở thành
nơi hoang dã sau nhiều năm bỏ hoang vì chiến tranh. Chào
đón ông là một con cọp già ốm tong teo vì
đói và run rẩy, và bao nhiêu là trăn, rắn,
heo rừng tranh với ông từng miếng ăn hiếm hoi.
Buì Giáng dễ gợi ta nhớ đến hình ảnh cuả nhân
vật Hồng Thất Công trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ông đường
đường là một bang chủ Cái Bang danh trấn giang hồ, võ
công cái thế nhưng chỉ thích cười đuà khoái
hoạt giưã chốn buị đời, không cần ai hay biết mà tận
hưởng tràn đầy những hoan lạc của trần gian, mà cất vang lên
tiếng cười đầy uy dũng nhưng hồn nhiên trong trẻo như trẻ con. Nguyễn
Đức Sơn, trái lại phảng phất hình ảnh của Hoàng Dược
Sư, đảo chủ đảo Hoàng Hoa, cô độc, kỳ dị mà cũng kỳ tài,
lạnh lùng mà sục sôi biết bao nỗi niềm sâu lắng
khôn nguôi.
Từ đó, cái tên Sao Trên Rừng, hay Nguyễn Đức Sơn
ngày nào chìm dần vào quên lãng.
Tên ông người ta còn không nhớ, thì nói
chi chuyện bàn đến thơ ông. Nhà học giả Nguyễn Hiến Lê
kể lại đôi dòng về Nguyễn Đức Sơn trong hồi ký:
_ “ Sơn thì sau ngày giải phóng, dắt vợ con lên
Blao ở, khai thác một trại của nhà Lá Bối, trồng luá,
trà, khoai mì, kiếm măng tre, sống y như người dân tộc,
thỉnh thoảng về Sài Gòn, ăn bận lôi thôi, cũng
đeo cái guì trên lưng, lại thăm cho tôi một gói
trà hoặc một nải chuối, một trái bí rợ”
(Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 508, nxb Văn Học, 1997)
Nhà học giả Nguyễn Hiến Lê và cụ Giản Chi là hai
người mà Nguyễn Đức Sơn, lúc này đã có
một thi hiệu khác là Sơn Nuí, có lòng
kính trọng. Hôm cụ Giản Chi mất, trên đường từ Bảo Lộc
về dự đám tang của cụ Sơn Nuí cảm xúc
làm một bài thơ, đọc cho tôi nghe qua điện thoại lúc
về đến cầu La Ngà:
KÍNH ĐIẾU CỤ GIẢN CHI
Cháu mang trà xuống cụ đây
Tự nhiên trong đó nuí mây ướp rồi
Vưà gần guĩ vưà xa xôi
Nhớ khi đối ẩm bồi hồi tương tri
Đầu xanh, tóc bạc cái gì
Kẻ Nam, người Bắc, ừ thì bắt tay
Lựu đạn lườm nguýt dao phay
Chúng ta thương tiếc cái khay đựng trà.
( ngày 27-10-2005)
Những ngày mang guì sắn măng, hái trà, sống tịch
mịch giưã nuí rừng khắc nghiệt đã để lại cho ông
một kỹ niệm khá buồn, đó là cái chết của đưá
con trai vì ăn nhằm nắm độc của đồng bào người dân tộc.
Một buổi chiều, đứng với nhau trên đồi Phương Bối, tôi chỉ bãi
cỏ vuông có những đoá hoa vàng rất đẹp hỏi ông:
_ Hoa này là hoa gì mà đẹp vậy?
_ Mộ của con tôi đó.
Tôi ngỡ ngàng không hỏi tiếp vì sợ làm ông
buồn. Tôi nhớ ông có bài thơ viết cho con, đượm
nhiều vẻ chua xót:
BÀI THƠ LÀM TRÊN ĐƯỜNG ĐƯA ĐÁM ĐƯÁ
CON TRAI CHẾT ĐÓI ĐẾN NƠI NGÀN THU AN NGHĨ
Bao năm
Thui thủi
Mần cuỉ
Cuốc đất
Quên mất
Trời xanh
Ném nhanh
Sách vở
Người ở
Cùng đá
Vui quá
Nhà cây
Tới đây
Thiên đường
Hý trường
Đâu phải
Sao cãi
Lời cha
Bò ra
Gò mả.
Tên tuổi Nguyễn Đức Sơn có lẽ bắt đầu xuất hiện trở lại trên
các phương tiện thông tin từ bài viết “Ẩn sĩ cuối
cùng và đồi thông Phương Bối” của tác giả Quốc
Việt ( báo Tuổi Trẻ, ngày 6-7-2002) . Sau bài báo
này, có nhiều bài viết khác nưã trên
báo chí trong nước tiếp tục nói về ông. Một vài
đài truyền hình cũng vào cuộc. Khi HTV làm phim
tư liệu về ông : “Một đời người, một rừng thông” trong chương
trình Tạp Chí Văn Nghệ, tôi được ông nhờ chọn cảnh
quay để giới thiệu cho đoàn làm phim, đoạn nói về cuộc
đời cuả ông trên đất Bình Dương.
Điều đáng nói thêm là bây giờ người ta nhắc
đến và ca tụng ông như một người chiến sĩ già có
công bảo vệ môi trường hơn là một nhà thơ có
thời lừng lẫy. Trong chương trình diễn đàn về Sơn Nuí
sau khi bộ phim được trình chiếu và nhận được rất nhiều thơ
phản hồi từ phiá người xem đài, người viết kịch bản cho phim,
tác giả Anh Linh có phát biểu rằng đây là
một thiếu sót lớn đối với ông Sơn Nuí.
Ông Sơn Nuí sinh ngày 18-11-năm 1937 tại biển Nại, làng
Du Khánh, tỉnh Ninh Thuận, đến Bình Dương vào khoảng
năm 1965, theo lời rủ rê của Phạm Công Thiện, một người cũng
rất nổi danh thời đó. Hai người dạy học tại trường Bồ Đề, ngày
nay là trường trung học cơ sở Phú Cường. Chính trong
thời gian này ông cưới một người đẹp Bình Dương và
sáng tác rất nhiều bài thơ gây được sự chú
ý của độc giả thời đó. Ông thành lập nhà
xuất bản Mặt Đất và cho ra mắt ba tập thơ “Những bài tình
đầu”, hầu hết những bài thơ trong thi tập này vẫn được giới
yêu thơ nhắc mãi đến tận hôm nay.
Vưà dạy học, vưà trốn lính, vưà sáng tác,
ông vưà cộng tác với nhiều tại chí văn học uy
tín thời đó như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa,
Mai…và chỉ trong vài năm đã cho ra đời được khoảng chục
thi phẩm, vài tập truyện ngắn. Những năm trên vùng đồi
nuí, ông đã viết cả ngàn bài thơ, đến nay
mất mát khá nhiều vì có lẽ như tự ngày
xưa ông đã viết:
CHƯA AI HAY
Tôi đào lỗ
Dấu thơ
Trong sương mờ
Vạn cổ
( Tịnh Khẩu, nxb An Tiêm,1973)
Để viết đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Sơn Nuí
đòi hỏi một công trình rất dài hơi. Trong phạm
vi của bài viết này xin được giới thiệu chỉ đôi nét
về ông, một nhà văn, một nhà thơ đã chọn Bình
Dương làm quê hương thứ hai của mình, đã từng
sống và viết trên mãnh đất này nhưng ba mươi năm
qua tên ông chưa từng được nhắc đến trên báo chí
nơi đây.
( 13-2-2006)