Quê Ngoại
Nguyên
Thảo
Tôi
về quê ngoại từ lúc còn thật nhỏ nên
những kỷ niệm chỉ còn mang máng, không liên
tục. Nhưng đối với thuở tuổi thơ của
tôi, như vậy cũng là quý lắm rồi! Chúng
là những hành trang mà tôi đã đem
theo
cho đến bây giờ, để lâu lâu ngồi nhớ lại một
vùng quê trước kia có tên gọi là
Vĩnh Trường. Và nay nó được mang tên chung
là Tân Vĩnh Hiệp gồm các xã Tân
Hóa
Khánh, Vĩnh Trường, Tân Hiệp Xã. Có thể
trong tương lai nó sẽ còn thay đổi rất
nhiều theo thời gian cùng với sự phát triển cận kề của
một thành phố mới.
Quả
thật, chiến tranh đã làm cho
con người không thể sống được yên ổn
chút nào. Bọn Tây đi bố thường xuyên,
chúng trấn áp lực lượng kháng chiến chống
lại chúng để giành độc lập cho đất nước. Chúng bắt
người, đốt nhà, cướp của,
hãm hiếp … khiến người dân phải bỏ dần làng mạc đi
tản cư đến nơi khác sinh sống.
Âp Phước Lương, quê nội tôi, cũng không thể
tránh khỏi tình trạng ấy, nên một
đêm kia cả nhà đã chất hết lên xe trâu
đi tản cư. Vừa ra khỏi nhà không bao xa,
có một bóng trắng giống như con heo từ bên
nây đường băng qua bên kia làm cho
bà Út tôi phải van vái để đi êm
xuôi. Sau giây phút ấy, tôi đã ngủ
mê mệt nên
không biết gì nữa. Từ hôm ấy tôi được sống
và lớn lên trên quê ngoại trong mấy
năm để rồi lại tiếp tục tản cư thêm một lần nữa và chọn xứ
chợ làm nơi cư trú tức
là Tân Phước Khánh hay thường gọi là
Tân Khánh về sau nầy.
Tôi
theo ba má về quê ngoại Vĩnh Trường
có lẽ lúc ba bốn tuổi gì đó tôi
không nhớ rõ. Tôi chỉ nhớ lúc đầu ba
má tôi tá túc
ở nhà của bà Ngoại. Rồi sau đó, ba má
tôi cất nhà tranh vách đất khoảng giữa đường
từ nhà Cậu Hai đi vào nhà bà Ngoại.
Và từ đó, ba má tôi bắt đầu canh tác
mảnh đất
gò mà ông bà ngoại chia phần cho má
tôi cùng Dì Tư và Dì Năm ở trong
bìa rừng,
đường vô Tân An. Lúc ấy ba tôi có nhờ
chú Ba Nức ở phụ giúp các công việc
và
chăn, giữ trâu. Chú Ba thương tôi lắm. Chú
thường dẫn hay cõng tôi đi chơi và
hái trái gì có ba khía bện lại để
làm cho tôi những chiếc ghế nhỏ xinh xinh, hoặc
lấy những lá dừa đan thành con cào cào
có râu và có cọng dừa để quây
quây, hoặc
những bông cỏ gấu kết lại thành ổ tò vò.
Chú Ba ở với ba tôi cũng khá lâu, khi
chú bắt đầu lớn, chú đi theo Việt Minh khiến tôi
buồn và nhớ chú nhiều. Lâu
sau, ba tôi có chú Chang thay chú Ba, nhưng
rồi chú Chang ở cũng chẳng lâu và bỏ
đi nữa. Từ đó hình như ba tôi không
còn giữ trâu để làm.
Sau
khi tỉa đậu trong đất rừng xong, ba
tôi đi mua tre và tầm vông để đẽo đòn
gánh và làm giường ngủ để bán cho những
ai cần đến. Ba tôi rất có khiếu về đan đát,
ông đan rế (rế là dụng cụ để lót nồi,
chảo), đan toi (hình dáng giống như con vịt để đựng
cá) rất đẹp. Ông đẽo đòn
gánh không những đẹp mà lại gánh rất
êm vai, không bị cấn đau khi cần gánh lâu.
Tôi không nhớ hồi tôi về nhà Bà Ngoại,
Cậu Sáu có ở nhà hay không, sau nầy
tôi
nghe ba tôi nói Cậu Sáu lúc ấy đi theo Việt
Minh và gặp mợ sáu ở trong Tân An.
Có một lần tôi theo má vào trong Tân
An ghé nhà mợ Sáu. Chỉ một lần đó
thôi! Mợ
Sáu tôi sau khi sanh anh Đức thì bị bệnh mất.
Ngày Bà Ngoại vào trong Tân An bồng
anh Đức về nuôi, tôi đứng ở cửa sau ngó Bà
Ngoại bồng anh Đức đang khóc như mưa.
Những
ngày tôi bị bệnh, má tôi đón xe ngựa
của Ông Út Bẹt để lên nhà Thương Thí
(bệnh viện Thủ Dầu Một) ở Dốc Nhà Thương
khám bệnh và chích thuốc. Lúc ấy tôi
không khóc nên Ông y tá khen: “Thằng
nầy
lì thiệt, không khóc he!”. Có hôm
má tôi dẫn tôi xuống chợ Thủ, vào tiệm chụp
hình để chụp tấm hình hai má con. Lúc ấy
tôi lại khóc rất nhiều, trên đầu tôi
có đội cái nón bánh tiêu (cái
bêrê) của lính commando Pháp mà ba
tôi không biết
kiếm ở đâu đã cho tôi đội. Hình ấy đến trước
khi ba tôi mất cách nay hai năm
ông còn giữ, mà em trai tôi cứ ngỡ là
hình của nó chụp với má tôi. Cái
nón bêrê
nầy về sau khi lính đóng ở đồn Tân Khánh đi
bố lên Vĩnh Trường đã lấy mất của
tôi, khiến cho tôi phải khóc vài ngày.
Tôi nhớ đến cái chóp nho nhỏ trên đỉnh
mũ mà tôi hay mân mê hoặc cầm nó để cho
cái nón xoay vòng vòng.
Đường
ra Thủ phải đi qua sân bay, lên
Bình Thoại, Phú Hòa rồi đến ngã ba
Cây Sao Quỳ. Thuở ấy đường còn nhiều chỗ vắng
vẻ, riêng ở Bình Thoại có những hàng cao su
của sở Con Rồng nên đường râm mát.
Hình như lúc ấy xe bò không được đi
trên đường cái trải nhựa mà đi theo con đường
đất nằm dọc hai bên đường. Còn từ Phú Hòa ra
tỉnh thì hai bên là rừng chồi
hoang vắng. Từ ngã ba Cây Sao Quỳ đến nhà thương
là nghĩa địa đầy gò mã, dưới
trũng là những thửa ruộng khô, không được mầu mỡ cho
lắm!
Những
đêm mưa ở quê ngoại, ễnh ương
kêu
uềnh oang nghe mà phát sợ, nhất là ở
phía sau nhà của bà ngoại có cái
trũng chứa đầy nước lại sát hàng rào, nơi ếch
nhái ễnh ương nhảy ra tha hồ mà
la lối ỏm tỏi. Tôi thấy hình dáng con ễnh ương
mà ghê quá: da nó bóng láng,
lại
có hai sọc vàng ở hai bên hông. Đầu
mùa mưa tôi hay đi theo mấy người lớn hơn để
“xắn” dế cơm. Những con dế nầy khi gáy
thường ra gần miệng hang.
Mình
soi đèn thấy nó thì dùng dao xắn chặn đường
không cho nó chun ngược xuống hang
để bắt. Nếu xắn trật hang thì phải đào hoặc đổ nước
vào hang khiến dế ngộp, bò
ra mà mình bắt. Rút ruột dế cơm rồi bỏ hột đậu
phọng vào đem chiên ăn thật là
béo. Hoặc có những lúc bắt cóc đem về nấu
cháo cóc rất ngọt. Lại có những ngày
đi theo anh chị con cậu Hai đi “câu” cắc ké. Mình
dùng cây dài giống như cần
câu, đầu có cái vòng khi gặp cắc ké
thì mình hút gió để nó lắng nghe,
rồi vòng
cái vòng qua cổ nó, giật ngang mạnh để vòng
xiết cổ nó rồi bắt. Hoặc đi ngoài đồng
hái trái sim, hay trái mua ăn đến tím ngắt
cái lưỡi.
Có
lần tôi theo má đi với mợ Ba, về nhà
má của mợ bên Phú Hữu. Đường đi lúc ấy
tôi cảm thấy thật là dài, vì còn nhỏ,
thấp
nên lại thấy cánh đồng ở sân bay và đồng
Bàu Bèo thật là rộng lớn và mênh
mông.
Thuở đó trên đường còn một số ít cây
cao su để trú nắng trong những lúc nắng gắt
hay trú chân. Cánh đồng nầy rộng lắm, từ bên
nây là xã Vĩnh Trường, bên kia là
rìa xã Phú Hữu, An Mỹ chạy dài tuốt
vô Phú Trung, Phú Chánh. Đường từ Phú
Chánh
chạy về Vĩnh Trường có cái bàu lớn nhiều
bèo, có lẽ từ đó có cái tên
Bàu Bèo mà
người ta có khi nói không đúng lắm trở
thành Bà Bèo; nhưng Bà Bèo hay
Bàu Bèo
gì thì cũng trở thành một cái tên
quen thuộc. Bây giờ cánh đồng ấy đã trở
thành
một phần của khu phố mới và xóm trên của Vĩnh
Trường đã trở thành “phường”.
Cánh đồng nầy đầy lúa gò vào mùa mưa
với nước thật nhiều. Những lúc mưa lớn, nước
đổ về vùng thấp đầu sân bay nơi có lồ ồ và
nhập lại với dòng suối con đổ qua
Bình Hòa, Tân Khánh ra bưng để đi vào
suối Cái, ra cầu Bà Kiên ở Tân Ba và
nhập
vào dòng Đồng Nai. Vào mùa nắng những người
dân chân chất, lam lũ lại tỉa đậu
phộng, đậu xanh… Họ cũng trồng đậu đũa,
khổ qua, bí đao, củ cải trắng… nói chung là hoa
màu để tăng thêm thu nhập nên
cuộc sống của người dân ở Vĩnh Trường khá bận rộn.
Nhớ
ngày đầu tiên đi với thằng To lên An
Mỹ trình giấy chuyển trường từ Tân Uyên về.
Hôm đó mưa thật lớn, nước chảy lênh
láng trên đường, khiến tôi không thấy được ống
cống bên lề đường nên đã đun xe
đạp xuống bìa cống, té ướt hết quần áo. Thằng To ở
đàng xa kêu tôi lấy quần áo
nó thay. Tôi thấy không cần thiết nên
không mượn. Từ đó tôi mới thật sự biết thằng
To là tốt bụng, còn trước kia chỉ nghe mà
không biết. Trong hai năm học An Mỹ
tôi với thằng To rất thân nhau vì hoàn cảnh
hai đứa tương đối giống nhau.
Nhà
của Bà Ngoại tôi thuộc xóm dưới, gần
xã Tân Khánh hơn. Từ đây băng qua hai
gò mã rồi đi vào xóm dọc suối, qua suối
là vào địa phận của xã Tân Phước
Khánh. Người ta thường đi bộ hay gánh hàng ra
chợ bằng con đường tắt nầy cho gần. Nếu đi bằng xe, thì đi con
đường qua đình
Vĩnh Trường nối với đường đi Tân Uyên ở
ngã ba Vĩnh Trường, sau nầy gọi là Ngã Ba
Cây Gòn (vì ngày trước ở đây
có trồng cây gòn thật lớn). Nhà Bà
Ngoại tôi cũng như bao nhiêu nhà ở Vĩnh Trường,
xung quanh đều có vuông tre bao bọc, nhà cũng
có thể trồng thêm tầm vông hoặc
trúc để khi cần có thể sử dụng mà khỏi phải đi
kiếm, hay mua. Chung quanh nhà
trồng cây ăn trái như mít, ổi, vú sữa, khế,
bưởi, cam, quít, chuối... Cách kiến
trúc nhà cửa gần như là mô hình chung
và từ đó cũng là căn bản để tôi thu thập
và viết nên bài “Nhà Ba Gian, Hai
Chái” trước kia. Ngoài những vuông tre, Vĩnh
Trường còn có những con đường chạy dọc theo các
hàng tre từ đầu sân bay chạy dọc
xuống Vĩnh Trường xóm dưới, bọc vòng vô tới
Tân An. Con đường nầy người ta có
thể đánh xe ngựa hay xe bò đi thoải mái. Những con
đường đi vào xóm chun vào giữa
hai hàng tre mát rượi, nhưng thỉnh thoảng làm cho
người ta nhức nhối nếu dậm phải
gai tre. Đường nhiều bụi vào mùa nắng và cũng rất
lầy lội vào mùa mưa. Cũng
trên những con đường nầy, lần đầu tiên tôi mới biết
cây cà rem khi đòi má mua
cho ăn, khi nghe tiếng chuông leng keng và tiếng rao:
“Cà rem đây năm cắc một
cây, đồng hai cây, cà rem đây”.
Ngày
còn ở quê ngoại, ba tôi cũng thường
hay tập đờn độc huyền,. Ông có chỉ cho tôi nhưng
tôi vốn thật là ngu hay vì còn
nhỏ mà không học được. Nhưng có lẽ do tôi
ngu, vì nhiều đêm ba tôi chỉ cho tôi
tập đếm số, thế mà tôi không đếm được, có khi
tôi đếm đến chín mà không biết đến
số mười. Bị ăn đòn tôi khóc tức tưởi, rồi ông
không thèm dạy tôi nữa, lúc ấy
tôi đã năm tuổi rồi còn gì. Có
đêm đang ngủ ba tôi vực dậy, đem tôi bỏ lên xe
đạp
chạy băng đồng, gò mã để chạy để trốn bọn cướp. Người ta
chạy khắp đồng giữa
đêm khuya. Cậu Ba tôi ngày xưa cũng bị cướp
đánh mà bệnh chết. Quả thật lòng dạ
con người, làm không muốn làm cứ muốn trộm cướp của
người ta mà ăn, bất chấp
tàn sát cả mạng người!
Ở
Vĩnh Trường thì tre, tầm vông thật là
nhiều! Nhà nào cũng có, nơi nào cũng
có vì tàng tre và tầm vong cản được lượng
gió rất lớn trong những ngày mưa bão, bảo vệ được
cây trái nhà cửa ở phía trong
vuông. Mùa nắng thì lại được mát bởi những
tán cây xanh. Đường đi không quanh
co lắm vì chạy theo bìa vuông. Tôi rất
thích đi trên những con đường ấy vì nên
thơ và râm mát. Những hàng tre như vậy khiến
tôi luôn nhớ đến Vĩnh Trường dù
tôi đã xa Vĩnh Trường thật là lâu.
Nhắc
tới tre, tôi lại nhớ đến mùa chim
dòng dọc làm ổ trên những cành tre. Ổ
dòng dọc thật là đẹp, có thể nói
dòng dọc
là loài có khả năng kết tổ đẹp nhất từ trước tới
nay mà tôi biết. Tổ treo lủng
lẳng trên cành tre, miệng ở dưới để tránh mưa ướt,
phía trong có chỗ trũng để
chim đẻ trứng, nở con. Tổ có bờ để chim đứng. Những ngày
gió lớn cũng có nhiều
con chim con bị văng rớt xuống đất, chết đi. Đâu đâu cũng
thấy ổ chim dòng dọc.
Tiếng kêu ríu rít tối ngày! Sau nầy, theo
chiến sự càng ngày càng tăng, tre bị
xe ủi sạch đi nhiều nơi, khiến Vĩnh Trường bị khác đi, nắng
chói nhiều hơn và
quang cảnh cũng khác đi nhiều, nhất là trong việc thực
thi “Hiệp định đình chiến
tái lập hòa bình” khiến Vĩnh Trường trở nên
trống trải, tang thương hơn vì bom
đạn cày nát từ xóm dưới cho đến xóm
trên vào mùa hè đỏ lửa.
Tôi
rời quê ngoại từ năm tôi bảy tuổi, về
xóm chợ Tân Khánh để cuộc sống được tương đối
yên ổn hơn nhưng thỉnh thoảng tôi
cũng theo chúng bạn lội khắp các cánh đồng hay
gò mã trên Vĩnh Trường để vạch
đá, đất cục hay đào đường bờ mà bắt những con dế
mèn về đá chơi. Tôi cũng hay
đi vào những khu rừng chồi với nhiều trái cơm rượu,
trái sim, trái giấy, trái
cò ke, trái táo gai… Tôi lặn lội từ ruộng
bìa suối lên Bình Hòa để bắt cá lia
thia, tắm ở những hầm đất sét nước đục ngầu, hoặc lội rừng chồi
từ bìa Hố Khởi
Hóa Nhựt lên đình Vĩnh Trường thả dọc lên
đường vào Tân An, và lại băng ruộng
gò qua Hóa Nhựt mà trở về.
Hình
ảnh quê xưa không bao giờ phai mờ
trong tôi. Tôi nhớ hoài hình dáng
ôm ốm, cao cao, mắt hơi mờ của bà ngoại tôi với
giọng nói yêu thương: “Nào đó bây?.
Thằng Thạch hả?. Lợi gần cho bà coi coi! Ra
hái ổi ăn đi con!”.
Giọng
nói ấy đã đi xa tự lâu lắm rồi nhưng
thỉnh thoảng tôi vẫn thường nghe văng vẳng
và vẫn còn thương nhớ không nguôi./.
(11/2014)