Những dấu ấn của trường Trịnh
Hoài Đức trong cuộc đời tôi
Lý Thành Phước
(CHS Khóa 10 &11)
Thời học sinh của tôi, muốn học chuyển cấp từ bậc tiểu học sang
bậc trung học tôi phải trải qua kỳ thi để lấy bằng tiểu học. Kỳ
thi không khó lắm nhưng cũng có nhiều người thi
rớt. Có những người lớn tuổi lấy bằng tiểu học xong, xin
đi làm sẽ tìm được những việc làm tương đối nhẹ
nhàng, đỡ phải lao động chân tay vất vả.
Sau khi đậu tiểu học, tôi phải thi tiếp vào lớp đệ thất
trường trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương, thời
đó là trường trung học công lập duy nhất của tỉnh.
Đây là một cuộc thi tuyển rất khó, muốn đậu, một
người phải loại khoảng mười người. Trải qua những kỳ thi căng thẳng như
thế, tôi may mắn thi đậu vào lớp đệ thất của trường trung
học Trịnh Hoài Đức niên khóa 1964 – 1965, do thầy
Đặng Trần Thường làm hiệu trưởng. Được vào học Trịnh
Hoài Đức, tôi cảm thấy mình vô cùng
hạnh phúc vì qua hai kỳ thi gian khổ. Số học sinh năm lớp
nhất bậc tiểu học cùng lớp với tôi bị loại rất nhiều,
trong đó có nhiều người học rất giỏi.
Tôi được xếp vào học lớp đệ thất P3. Những ngày đầu
tiên vào lớp, tôi có một cảm giác rất
lạ. Ngôi trường nằm kế bên những cánh đồng
lúa rộng thênh thang. Những ngọn gió từ cánh
đồng thổi vào thật trong lành, mát mẻ. Khung cảnh
ngôi trường thật thơ mộng. Nhà trường phân ra: từ
lớp đệ thất đến lớp đệ ngũ học buổi chiều, từ lớp đệ tứ đến lớp đệ nhất
học buồi sáng.
Những ngày học buổi chiều đã đem lại cho tôi những
ký ức đẹp nhất. Khi vào học lớp đệ thất, tôi
còn nhớ như in những ngày được nghỉ học hai giờ đầu,
tôi cùng các bạn lén chun rào ra
những miếng ruộng xung quanh trường mót củ sắn, bắt dế ... Bắt
được dế chỉ chơi một lúc rồi thả, vì nếu đem vào
lớp lỡ nó gáy lên thì bị thầy la. Thỉnh
thoảng đi nhằm vào những ruộng củ sắn người ta còn chừa
lại để nhổ sau, bị chủ ruộng la và dí cả đám chạy
băng đồng chun rào trở lại lớp thật là vui. Có lần
bạn Hiển học cùng lớp bị đám chăn bò dùng
giàn thun bắn trúng đầu chảy máu. Thầy Bé
Tám dẫn cả lớp ra dí đám chăn bò đó
chạy thục mạng. Từ đó về sau họ không còn bắt nạt
bọn học sinh chúng tôi nữa.
Nhà tôi cách xa trường khoảng 5 cây số
nên phương tiện di chuyển lúc đó của chúng
tôi là đi xe đò hoặc xe lam. Bọn tôi
thích đi xe đò hơn vì rẻ và hợp với
túi tiền của học sinh. Còn nếu sắp đến giờ học thì
bắt buộc phải đi xe lam. Bọn con trai chúng tôi thường
ngồi trước cạnh tài xế nhường băng ghế phía sau cho
các bạn nữ. Khi tan học, cả trường đi bộ xuống chợ Búng
cách trường hơn 1 km để đón xe đò về
nhà. Có những ngày gặp trời mưa lớn
chúng tôi phải dầm mưa tiếp tục đi. Đến chợ Búng
mới vào nhà lồng chợ đụt mưa chờ xe đò đến. Khi về
đến nhà vì lạnh nên môi bị thâm
tím hết. Đoạn đường từ trường xuống Búng tuy ngắn ngủi
nhưng đầy ắp những kỷ niệm khó quên.
Tuy phải học hành trong bối cảnh chiến tranh ác liệt
nhưng đến ngày 23 tháng chạp hàng năm trường Trịnh
Hoài Đức vẫn có tổ chức trại Tết. Bọn học sinh nam
chúng tôi được tham dự trại Tết là một điều thật
sung sướng vì được ở cùng chung trại và được giao
lưu với các bạn bên trường nữ. Ngày thường nếu nam
sinh nào léng phéng sang trường nữ cua đào
nếu bị bắt gặp sẽ bị đuổi học từ 3 đến 5 ngày. Cùng chung
sinh hoạt với các bạn nữ trong hội trại thật là vui.
Tôi còn nhớ có lần đi đến nhà bạn
Hoàng gần Ngã Ba An Sơn để chặt tàu dừa về trang
trí cho trại, bọn tôi mải mê xuống rạch học bơi lặn
đến nỗi quên cả xin tàu dừa. Khi về đến nơi dựng
trại, các bạn chờ không được bỏ về gần hết. Năm đó
lớp tôi không có trại để sinh hoạt, phải nhờ thầy Đỗ
Anh Tài xin các bạn nữ cho sinh hoạt ké.
Trong lớp còn có các bạn nhà ở vườn
trái cây Bình Nhâm nên tôi
có dịp cắm trại ở vườn trái cây với những cảm
giác thật tuyệt vời. Năm học lớp đệ ngũ, lúc gần
hè, lớp đệ ngũ P3 có gần 20 học sinh đến vườn trái
cây của gia đình bạn Lê Tấn Thạnh ở gần vườn
cây Âu Cơ để cắm trại. Chúng tôi cắm trại bắt
đầu từ 8 giờ sáng rồi cùng nhau sinh hoạt tập thể thật
là vui.
Riêng bạn Thạnh, có tật ở chân, hôm đó
được đón các bạn cùng lớp đến nhà
mình vui chơi nên rất cảm động, nhiều nó lúc
ngồi nói chuyện với bạn bè mà hai tay cứ dụi mắt.
Bữa ăn trưa chúng tôi được má bạn Thạnh giúp
đỡ lo cho tươm tất. Nơi đây, lần đầu tiên tôi mới
biết được con ve măng, tuy nhỏ nhưng kêu cũng rất vui tai. Đến
khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi ra con rạch gần bên
tập bơi, lặn. Tôi còn nhớ bạn Nguyễn Thế Sang ôm
trái banh thả trôi theo dòng nước từ đầu mương chảy
ra rạch. Bạn Sang cứ làm đi làm lại nhiều lần đến
lúc cặp mắt đỏ kè lên. Các bạn ở trên
bờ thấy vậy sợ quá kêu lên bờ, nhưng vì
quá khoái chí nên bạn vẫn tiếp tục bơi.
Riêng tôi thì cố gắng tập bơi nhưng không được
đành phải quay sang tập nín thở lặn. Đến hơn 5 giờ chiều,
buổi cắm trại kết thúc. Giờ chia tay thật cảm động, má
bạn Thạnh vừa lau nước mắt vừa cám ơn chúng tôi
vì đến nhà bà cắm trại giúp cho bạn Thạnh
đỡ được mặc cảm vì bị tật, lúc nào cũng sợ bị bạn
bè bỏ quên. Thay mặt cho cả nhóm, trưởng lớp An
cám ơn gia đình bạn Thạnh đã giúp đỡ
chúng tôi rất nhiều trong suốt ngày cắm trại.
Chúng tôi chia tay nhau ra về mà trong lòng
đứa nào cũng có một niềm vui lâng lâng
khó tả.
Sau nầy khi học đệ tứ, tôi có dịp đến nhà bạn Điền
chơi. Gần nhà bạn Điền cũng có một con rạch nhỏ.
Chúng tôi cũng tiếp tục tập lội. Tôi cố gắng tập bơi
rất nhiều nhưng cũng không bơi được đành phải tập
nín thở lặn như trước.
Năm tôi học lớp đệ lục, phong trào thể thao lên rất
mạnh. Lớp tôi có bạn Nam mập nằm trong đội tuyển
bóng tròn của nhà trường được đi thi đấu cấp tỉnh.
Có những lần đội tuyển trường đấu với đội tuyển Nông
Lâm Súc trên sân cỏ trước phòng
thí nghiệm. Tất cả học sinh được nghỉ học ra sân cổ vũ cho
đội nhà thật vui vẻ.
Năm đệ ngũ, có sự kiện một trái mìn gài
trong sân trường đã phát nổ làm tử thương
hai sĩ quan Đại Hàn. Họ tổ chức dạy Thái Cực Đạo cho học
sinh Trịnh Hoài Đức. Hai ông nầy đến dạy từ sáng
sớm và bị nạn.
Cũng năm nầy, một buổi chiều khi ra chơi, chúng tôi
ùa ra sân cỏ trước phòng thí nghiệm chơi
đá banh. Bỗng nhiên nghe tiếng la: "Có lựu
đạn". Nhiều người chạy lại xem, trong đó có tôi,
thì thấy một quả lựu đạn do hai bạn Phú và Nguyện
đá bật lên nằm lăn lóc trên sân cỏ. May
mắn là sợi dây gài kíp nổ còn
dính lại. Khi lính ở An Thạnh lên phá nổ
thì mọi người đếm được cả thảy khoảng 9 quả lưu đạn. Thật
là may vì nếu các quả lựu đạn trên
phát nổ thì số thương vong rất lớn vì lúc
đó học sinh chúng tôi trên sân rất
nhiều.
Có lẽ do sự cố đá banh nói trên và
cửa kiếng phòng thí nghiệm thường xuyên bị bể
nên học sinh bị cấm ra sân cỏ dợt banh. Sau nầy phong
trào bóng chuyền, bóng bàn phát
triển mạnh hơn bóng tròn. Tôi cũng thường
xuyên tập dợt chơi bóng chuyền và bóng
bàn với các bạn cùng lớp. Có lẽ lớp
tôi chơi quá dở nên không có ai
vào được đội tuyển của trường cả. Về văn nghệ cũng vậy,
tôi nhớ chỉ có một lần duy nhất lớp tôi có
thành lập đội kịch đi tranh giải với các lớp khác
và bị loại ngay từ đầu.
Sang năm đệ tứ, lớp tôi được học buổi sáng. Tôi cảm
thấy như mình được làm người lớn. Những lần chun
rào mót củ sắn không còn nữa. Chúng
tôi có vẻ chững chạc hơn. Trong năm nầy có nhiều sự
kiện đáng nhớ. Thầy Bé Tám bắt đầu dạy cho
chúng tôi những bài nhạc của Trịnh Công Sơn
như bài Gia Tài Của Mẹ, Ngày Dài Trên
Quê Hương... Nhà trường còn mời anh Trịnh
Công Sơn, chị Khánh Ly, anh Miên Đức Thắng đến
trình diễn. Tôi còn nhớ buổi sáng hôm
ấy, nhà trường cho tất cả học sinh được nghỉ học xem văn nghệ.
Sân khấu chỉ là vài cái bàn học sinh
ghép lại. Phần âm thanh chỉ có một ampli
phóng đại và một chiếc loa thông tin. Về nhạc chỉ
có một cây đàn ghi ta. Đầu tiên chị
Khánh Ly hát do anh Trinh Công Sơn đệm đàn.
Kế tiếp anh Trịnh Công Sơn vừa hát vừa đệm đàn. Sau
cùng là phần trình diễn của anh Miên Đức
Thắng. Mỗi người hát mười mấy bài. Trước mỗi bài
hát họ giới thiệu hoàn cảnh nào đã khiến họ
có cảm hứng để sáng tác ra bài hát
đó. Tuy sân khấu mộc mạc, phần âm thanh đơn sơ,
nhưng họ hát rất say sưa và rất hay. Sau nầy, khi họ trở
thành những ca sĩ tài danh, nghe họ hát tôi
có cảm nhận là không hay bằng lúc họ
hát trước sân trường Trịnh Hoài Đức. Đến khi Anh
Trịnh Công Sơn hát bài Gia Tài Của Mẹ
thì thầy Đỗ Anh Tài kêu gọi cả trường cùng
cất giọng hát theo thật khí thế. Đến phần anh Miên
Đức Thắng, có một bài hát anh giới thiệu là
khi anh sáng tác xong đem ra trình diễn thì
bị chính quyền thời bấy giờ kêu án ba hay
sáu tháng tù (lâu quá tôi
không nhớ rõ). Trong bài hát có
câu : "Mẹ ơi nuôi con lớn đi làm tù binh".
Bài hát trên đã ảnh hưởng đến tôi sau
nầy rất nhiều. Ở Sài Gòn, mỗi khi trình diễn xong
thì anh phài trốn ngay, nếu chậm chân thì bị
cảnh sát ập đến bắt bỏ tù. Khi anh Miên Đức Thắng
đang say sưa hát bỗng trong đám học sinh có tiếng
la: “Cảnh sát dã chiến tới”. Tôi nhìn ra
ngoài đường thì thấy một xe nhà binh chở đầy cảnh
sát dã chiến chạy ngang qua trước trường. May quá,
nó chạy luôn chứ không vào sân trường
đề giải tán. Sợ quá, nhiều học sinh bỏ về, chỉ còn
một số ít trong đó có tôi ở lại cho
đến hết. Cuối chương trình, họ bán tập nhạc Ca
Khúc Da Vàng của anh Trịnh Công Sơn có chữ
ký của chị Khánh Ly. Bữa đó vì xài
hết tiền nên tôi không mua được. Sau nầy cứ nuối tiếc
mãi.
Năm l967, có lần SV Huỳnh Tấn Mẫm và HS Lê Văn
Nuôi đến tại phòng thí nghiệm gặp mặt ban đại diện
học sinh của trường và sau đó thì Thầy Bé
Tám và cô T. dẫn một số học sinh của trường, xuống
Sài Gòn tham gia biểu tình cùng với sinh
viên học sinh Sài Gòn. Lớp tôi có bạn
Lộc do có đi sinh hoạt hiệu đoàn nên theo.
Đoàn biểu tình bị cảnh sát dã chiến
đàn áp. Trong lúc lộn xộn, thầy Bé
Tám và cô T. lạc mất. Đám học sinh
chúng tôi bị bơ vơ. Riêng bạn Lộc vì
khói cay làm mờ mắt suýt đâm phải xe bồn chở
xăng. Cũng may, tất cả đều trở về bình yên.
Đến đầu năm 1968 xảy ra biến cố Tết Mậu Thân. Lò gốm của
gia đình nhà tôi bị máy bay thả bom
làm sập đổ và hư hại hoàn toàn. Sau khi đi
tản cư về, nhìn khung cảnh tan hoang, má tôi xỉu
luôn. Khốn khổ cho gia đình tôi, vì lò
Thanh Lễ kế bên và các lò gốm xóm
trên chỉ bị hư hại nhẹ, trong khi lò của nhà
tôi thì bị bom miểng phá tan nát.
Nhà lò bị bom na pan đốt cháy hoàn
toàn. Cũng may là số vàng ba má tôi
chắt chiu dành dụm, mà khi đi chạy loạn, má
tôi dấu vào đống khuôn chén bể thì vẫn
còn nguyên. Nhờ số vàng trên và
kêu hụi mượn vốn nên lò gốm nhà tôi
xây dựng lại được và tiếp tục sản xuất gốm trong
hoàn cảnh thật khó khăn vì thiếu vốn.
Sau một thời gian nghỉ Tết hơi dài vì chiến tranh,
chúng tôi tiếp tục học tiếp đệ nhị lục cá nguyệt
của năm đệ tứ. Chấp hành lệnh tổng động viên., lớp
tôi có vài người phải nghỉ học đi lính
vì lớn tuổi như tôi đã nói phần đầu.
Có người bắt đầu đi học trễ. Có người thi rớt vào
lớp đệ thất đến ba lần nên khi học đến lớp đệ tứ là
đã đủ 18 tuổi, đúng tuổi bị động viên. Tuy
hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn nhưng tôi
cũng hoàn tất xong năm học với điểm trên trung
bình.
Trong năm học lớp đệ tứ, người thầy làm tôi nhớ đến nhất
là thầy Nguyễn Đông Ngạc dạy môn Việt Văn. Thầy
thường đi qua lại trong lớp và ngâm hai câu thơ của
Xuân Diệu: “Hôm nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm, Anh nhớ em em
hỡi anh nhớ em”. Trước khi nghỉ hè, chúng tôi phải
làm đơn chọn ban cho năm học lớp đệ tam. Sự việc trên cũng
khiến cả lớp bàn bạc và suy nghĩ rất nhiều. Sau nhiều lần
đắn đo suy nghĩ, tôi xin vào ban B vì tôi
mê làm kỹ sư mặc dù môn Toán tôi
không được khá lắm, còn các môn nhiệm
ý khác tôi rất khá.
Tôi được xếp vào học lớp đệ tam B4. Một số bạn cùng
lớp đệ tứ P3 chuyển sang học lớp đệ tam A3 và một số bạn lớp đệ
tứ P4 chuyển sang học lớp đệ tam B4 . Vì thế, khi chuyển sang
bậc trung học đệ nhị cấp, chúng tôi mất đi một số bạn cũ
và có thêm một số bạn mới. Nói vậy chứ trong
thời gian ở bậc trung học đệ nhất cấp phòng học lớp P3 và
P4 lúc nào cũng ở sát bên nhau nên
cũng quá quen thuộc. Sau khi làm xong thành
tích biểu thì chúng tôi được thầy
giám thị thông báo lớp được chuyển thành lớp
10 B4 thuộc hệ 12 năm. Vài ngày sau thì tấm bảng
đề tên lớp đệ tam B4 được gỡ bỏ và đổi thành lớp 10
B4. Riêng về thành tích biểu đã lỡ ghi lớp
đệ tam B4 đươc giữ nguyên, vì nếu đổi lại sẽ tốn rất nhiều
chi phí. Vài ngày sau đó, lại thêm
một số bạn lớn tuổi phải giã từ đời học sinh vì lệnh tổng
động viên. Lớp học trở nên vắng vẻ vì chỉ còn
28 học sinh gây nên một cú sốc cho chúng
tôi. Tuy rất buồn, nhưng tôi vẫn cố gắng học vì thấy
mình may mắn chưa bị cuốn vào dòng xoáy
chiến tranh.
Trong năm lớp 10 có một chuyện làm tôi rất buồn
chán suýt phải nghỉ học. Chuyện xảy ra trong kỳ thi đệ
nhị lục cá nguyệt. Hôm đó lớp tôi thi
môn Anh Văn vào 2 giờ sau. Trong giờ ra chơi, khi đi ngang
qua lớp 10 A3 học ở phòng thí nghiệm, chúng
tôi ngạc nhiên khi thấy giờ ra chơi mà sao cửa vẫn
đóng. Điều nầy làm nhiều học sinh tò mò
ngó vào xem. Riêng tôi và bạn Lộc
thì thò hẳn đầu vào xem cho rõ. Thầy P. dạy
Anh Văn thấy vậy la lớn đuổi chúng tôi đi. Chúng
tôi bỏ đi mà không biết tại sao mình bị la.
Đến giờ vào lớp để thi, thầy P. giận dữ kêu hai đứa
tôi lên đứng bên bàn thầy và đòi
đuổi học không cho thi khiến cả lớp chưng hửng. Lý do thầy
đưa ra là chúng tôi đã cóp pi đề thi
vì đề thi của lớp 10 A3 và lớp 10 B4 như nhau.
Chúng tôi bèn năn nỉ thầy và kêu oan
là chúng tôi không biết lớp 10 A3 đang thi,
vì nếu có thi thì thầy đã thu bài
trước giờ ra chơi và chúng tôi chỉ vừa ngó
vào xem chưa được nửa câu thì bị la nên bỏ đi
ngay. Chúng tôi cũng không biết là thầy P.
cho hai lớp thi chung một đề. Cuối cùng, thầy P phải cho
chúng tôi thi. Trong lúc cả lớp làm
bài thi thì ông làm đơn gửi cho thầy Hiệu
Trưởng là thầy Nguyễn Trí Lục đề nghị đuổi học tôi
và bạn Lộc. Bài thi quá dễ nên tôi
làm đúng không sót một câu. Khi cả lớp
thi xong, ông hùng hồn tuyên bố nếu Hiệu Trưởng
không đuổi học chúng tôi thì ông cương
quyết nghỉ dạy.
Đến ngày trả bài thi, ông nói thầy hiệu
trưởng không muốn làm buồn lòng học sinh nên
không chịu đuổi hoc chúng tôi. Ông sẽ kiện
lên Ty Giáo Dục và ông không chấm điểm
bài thi của chúng tôi. Ông cho điểm zero
và phê vào học bạ là vô kỷ luật,
đáng phạt. Đáng nói hơn là kỳ thi đệ nhất
lục cá nguyệt môn Anh Văn cũng do thầy P. đảm trách
mà không có sự cố nào xảy ra. Chúng
tôi làm bài thi đàng hoàng và
làm bài thật tốt nữa, không hề có vi phạm
nào hết. Thế nhưng ông vẫn phê vào học bạ của
tôi là vô kỷ luật đáng phạt (thật lạ
lùng vì tôi đâu có phạm lỗi ).
Sau nầy khi tôi kể chuyện nầy cho các bạn học trường
khác nghe thì họ nói là: “Từ trước đến nay
chưa thấy có ông thầy nào mà khó
khăn, rắc rối với học trò dữ như vậy”. Nhiều thầy dạy môn
khác khi thấy lời phê, nghe trưởng lớp tôi
trình bày câu chuyện đều cho là ông
đã ra tay với học trò một cách quá
đáng. Riêng tôi đến tận bây giờ, khi
nhìn vào học bạ, tôi cảm thấy thật chua xót.
Tôi thầm cảm ơn thầy Nguyễn Trí Lục đã có
tấm lòng nhân hậu. Nhờ thầy mà tôi vẫn tiếp
tục đến trường, mặc dù khi bị phạt một cách oan ức,
tôi có ý định nghỉ học chuyển sang trường
khác.
Sự việc trên ám ảnh tôi suốt nhiều năm liền.
Lúc nào tôi cũng thầm cầu mong được học với những
thầy cô có tấm lòng nhân hậu biết thương
yêu học trò. Đến nỗi sau nầy khi con tôi đi học,
tôi thường van vái cho con tôi không gặp phải
một ông thầy khó khăn như thầy P..
Trong năm đệ Tam, tôi còn nhớ đến thầy Nguyễn Nhật Duật
dạy môn Công Dân Giáo Dục. Cũng như thầy Ngạc,
thầy thường đi đi lại lại trước mặt học sinh và luôn miệng
nói câu ngạn ngữ của Hy Lạp: “Từ cái không
có gì đến cái không có gì”.
Tôi cũng phải nhắc đến thầy Nguyễn Minh Châu. Thầy dạy
toán rất dể hiểu, nhờ thầy tôi gần như lấy lại được căn
bản của môn Toán, nếu như không phải phụ việc
nhà (do hoàn cảnh khó khăn của gia đình sau
biến cố Mậu Thân), có thời gian nghiền ngẫm
có lẽ tôi sẽ học giỏi môn Toán hơn nhiều.
Sang năm lớp 11, lớp có thêm vài người bạn mới ở
các trường khác chuyển đến. Lớp học có thêm
nhiều sinh khí. Thầy Lê Tấn Lộc thay thế thầy Nguyễn
Trí Lục làm hiệu trưởng. Trong số những giáo sư
dạy lớp chúng tôi trong năm nầy tôi nhớ nhất
là thầy Nguyễn Tường Thụy dạy môn Toán. Thầy
yêu cầu học sinh vứt hết sách vở đi, đừng dồn nén
quá nhiều vào đầu óc, đến ngày thi sẽ
không còn nhớ gì cả và kết quả là thi
rớt. Đó là kinh nghiệm của thầy và thầy cũng từng
thi rớt kỳ thi Tú Tài 1 như thế.
Thầy Võ Tấn Phước dạy môn Việt Văn. Vào lớp, thầy
thường hay xem tướng của học trò và thầy cũng giới thiệu
với học sinh những quyển sách ngoài chương trình.
Trong số nầy tôi thích nhất là khi thầy nói
về quyển Dòng Sông Định Mệnh. Thầy nói nhiều về
cuộc đời người như một dòng sông. Mỗi dòng
sông đều có những khúc quanh và cuộc đời
người cũng có những khúc quanh định mệnh như thế.
Trong năm nầy, gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn.
Sự hư hại của lò gốm nhà tôi năm Mậu Thân
kéo theo nhiều nợ nần chưa trả hết, do thiếu nợ chành
chén hơi nhiều nên họ giao cho nguyên liệu xấu,
làm hư nước men cả năm. Sản phẩm làm ra bán
giá thấp hơn lò gốm khác, nhiều lúc
hàng loại 1 phải bán cùng giá với
hàng loại 2 của lò gốm khác, gây ra lỗ vốn
nặng.
Còn một việc khác cũng làm khó khăn
thêm cho gia đình tôi. Số là ba tôi
có một người cháu kêu bằng chú, tên
Hổ. Do cha mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác, bị dượng ghẻ hắt hủi,
ba tôi mới rước anh về cho cô tôi nuôi. Năm Mậu
Thân 1968, do lệnh tổng động viên, anh phải đi lính.
Ba tôi thấy vậy mới nhờ người quen giúp đỡ lo giấy tờ lớn
tuổi và xin cho anh làm nhân viên gác
lò đường. Việc nầy làm ba tôi phải tốn một số tiền.
Nhưng không ngờ anh ta quá ham đi lính và
anh ta quá làm biếng vì tối đi gác
lò đường, ngày phải về làm lò gốm phụ
giúp cô tôi vì thế anh ta bỏ việc ở lò
đường và lấy lại giấy tờ nhỏ tuổi cũ đi đăng lính nghĩa
quân. Từ khi đi lính, anh ta lập được nhiều chiến
công, nhờ thế anh ta có thêm vợ nhỏ nữa . Anh ta
không còn phụ lò gốm của cô tôi , lại
còn giao vợ con cho cô tôi nuôi vì tiền
lương lính ít ỏi chỉ đủ nuôi vợ nhỏ. Cô
tôi bị tật ở chân không làm được việc nặng
nên hoàn cảnh gia đình của cô tôi trở
nên khốn đốn.
Cô tôi than thở quá nhiều khiến ba tôi động
lòng phải ra tay giúp đỡ, mặc dù má
tôi phản đối kịch liệt. Bà yêu cầu ba tôi phải
ưu tiên lo cho con, nhưng ba tôi vẫn cương quyết
không nghe. Việc làm của ba tôi làm cho gia
đình tôi đã gặp nhiều khó khăn do làm
ăn lỗ lã, nay khó khăn lại càng chồng chất
thêm làm má tôi nhiều khi phải khóc.
Ba tôi quyết định không thuê mướn người làm
công việc nặng nhọc nhất của lò vì công việc
trên phải chi trả rất nhiều tiền và ông giao cho anh
em tôi làm phần việc đó. Đi học về đến nhà
là phải nhào lên lò làm việc ngay.
Có bữa thầy cho bài về nhà, tôi phải
lấy tập ra làm liền vì sợ để lâu sẽ quên
không làm được. Khi lên lò không thấy
anh em tôi , ông xuống nhà thấy tôi đang
làm bài ông bèn la cho một trận, khiến
tôi phải bỏ ôn tập tức tốc lên lò làm
việc ngay. Nhiều lần như vậy, có lúc tôi nghĩ quẩn,
muốn tự tử chết cho xong.
Những trận la rầy thường xuyên của ba tôi làm cho
đầu óc của tôi bị mệt mỏi. Việc học hành của
tôi vì thế càng ngày càng đi xuống.
Tuy thế, tôi cũng cố gắng đạt được trên trung bình.
Không biết ai bày vẽ mà ba tôi đã cho
tôi nghỉ làm trước ngày thi khoảng một
tháng. Trong một tháng trời mà tôi phải
ôn tập một khối lượng bài thi khổng lồ của một năm. Sức
người có hạn, đầu óc tôi làm sao chất chứa
nổi. Kết quả là tôi thi rớt kỳ thi tú tài 1
năm 1970. Khi xem bảng điểm, tôi càng buồn hơn vì
tôi được 108/115 điểm, thiếu chỉ có 7 điểm, tương
đương 1,75 điểm toán hay 2, 3 điểm Lý Hóa.
Chỉ cần làm trúng thêm một câu hỏi
giáo khoa, hoặc chỉ cần làm trúng thêm
vài câu môn phụ (nếu tôi có được thời
gian ôn bài) là tôi đã thi đậu.
Sau khi thi rớt, đến ngày tựu trường tôi phải làm
đơn xin học lại lớp 11. Ngoài những bạn đủ tuổi không
còn được hoãn dịch phải đi lính, tôi
và 3 bạn tên là Phong, Nguyện, Xuân được
nhà trường xếp vào học lớp 11B4 khóa 11. Tôi
được học chung các bạn mới như Hoàng, Thạnh, Nam, Khương,
Mến, Bình v.v.... Trong đó, một số bạn trước đây
đã cùng thi với tôi vào lớp đệ thất
khóa 10 nhưng không đậu phải vào học lớp đệ thất
khóa 11 như bạn Hoàng, Thạnh .....
Trong năm học nầy, tinh thần học hành của tôi bị giảm
sút rất nhiều,.Vì sợ phải đi lính, tôi
và bạn Phong cùng nộp đơn vào học lớp trắc lượng
viên của Bộ Công Chánh nhưng vì không
có tiền để lo lót nên hồ sơ bị trả lại. Rút
kinh nghiệm kỳ thi rớt năm rồi, tôi năn nỉ ba tôi: “Ba cho
con nghỉ làm phụ gia đình để con có thời gian
ôn tập bài vở, nếu không , con sẽ tiếp tục thi rớt
và bị đi lính”". Ba tôi suy nghĩ hồi lâu rồi
nói: “Được rồi, để tao tìm người làm thay thế cho
mày học”. Lúc nầy anh tôi đã đi lính
nên công việc nặng nề trên tôi phải làm
một mình không ai phụ giúp, khiến thời gian học
hành và ôn tập bị thu hẹp thêm.
Ba tôi đi tham khảo ý kiến của cô tôi xong,
ông về nhà kêu tôi lại và bảo: “Nếu
trước đây tao đẻ ra cái hột gà, hột vịt tao luộc ăn
còn tốt hơn tao đẻ ra mầy”. Sau nầy tìm hiểu tôi
mới biết, vì vợ lớn và vợ nhỏ của anh Hổ cùng đẻ
con trong năm, nhiều lần bà vợ lớn của cháu ông gặp
ông đòi tự tử nên ông phải tăng cường phụ
giúp tiền bạc cho cô tôi vì thế ông mới
bắt buộc tôi phải tiếp tục làm công việc nặng nhọc
kia. Có như vậy ông mới có tiền để lo cho
cháu ông.
Việc học lại lớp 11 dễ dàng hơn trước rất nhiều, nhưng vì
phải phụ làm việc lò gốm nhà nhiều hơn, hầu như
không còn thời giờ nhìn vào sách vở,
trừ những lúc ngồi học trên lớp, vì vậy việc học
của tôi không tiến bộ mấy. Tuy thế tôi vẫn cố gắng
học không nản chí. Một phần lo sợ phải đi lính, một
phần vì mắc cỡ với bạn bè.
Tôi nhớ có lần thầy Võ Tấn Phước ngồi coi tướng cho
đám học sinh, khi coi đến tôi thầy chỉ mỉm cười rồi lắc
đầu không nói gì. Có lẽ thầy đã
nhìn thấy số phận của tôi không tốt, gặp nhiều rủi
ro hơn là may mắn. Gần hết niên học, một bữa ra chơi
tôi lang thang đi đến gần gốc điệp tây có người
còn gọi là cây đa già sau văn phòng
trường, bỗng tôi nghe có tiếng la của thầy Ba Viên
tổng giám thị. Tưởng ổng la mình, tôi ngoái
đầu nhìn lại thấy ông đưa tay chỉ vào một cặp trai
gái đang khắc những chữ lưu niệm vào gốc đa già.
Nghe la hai người liền bỏ chạy. Tò mò tôi đến xem
thì thấy tên của hai người kia và ngày
tháng năm ghi lưu niệm được khắc trên cây. Những
dòng nhựa cây còn ứa ra hai bên. Bỗng
nhiên một cảm giác buồn khó tả xuất hiện làm
tôi ứa nước mắt. Tâm trạng tôi lúc đó
như người phải từ biệt mái trường mãi mãi.
Sau đó, anh của tôi may mắn trúng được hai tờ
vé số được tám trăm ngàn đồng. Đây
làmột số tiền khá lớn thời bấy giờ. Nhờ số tiền nầy, ba
tôi trả hết nợ và mua thêm một số nguyên liệu
mới. Do mua được nguyên liệu tốt nên không còn
hư nước men nữa và ba tôi cũng có tiền để hổ hỗ trợ
cho cô tôi lo cho đứa cháu báo đời của
ông, vì thế ông mướn người làm thay thế
tôi cho tôi nghỉ làm để ôn bài.
Cũng như năm trước, tôi chỉ còn vỏn vẹn có một
tháng ôn tập bài vở để thi Tú Tài 1.
Tôi cũng cố gắng nhồi nhét kiến thức vào đầu. Nhưng
kết quả như thầy Thụy đã nói: “ Việc học như trên
đã làm cho đầu óc tôi quá tải”.
Thêm vào đó là áp lực thi rớt sẽ phải
đi lính nên đến giờ thi Tú Tài môn
Toán (là môn thi chính hệ số 4) đột
nhiên đầu óc tôi trống rỗng, cầm đề thi trên
tay mà mồ hôi tuôn ướt đẫm. Giờ làm
bài là 3 tiếng đồng hồ thế mà gần hai tiếng đầu
óc tôi như một đứa trẻ lên tám tuổi chỉ biết
cộng trừ nhân chia chứ không còn biết gì hết.
Sau khi qua cơn sốc đầu óc trở lại bình thường thì
chỉ còn hơn một tiếng đồng hồ để làm bài.
Tôi vội vã làm bài không kịp xem lại
nên khí giám thị thu bài, tôi vẫn
còn làm dang dở.
Đến môn Lý Hóa hệ số 3 tuy áp lực có
giảm, thời gian bị sốc cũng ít đi, nhưng vì sợ và
không tin tưởng vào bài làm của mình,
tôi hỏi người ngồi bên cạnh đáp số và
tôi đã sửa lại một câu giáo khoa. Sau khi thi
xong, tôi mua bài giải về phòng trọ xem lại.
Tôi tá hỏa vì tôi đã làm
đúng mà vì không tin tưởng sức mình
tôi đã sửa lại sai, làm mất đi 2,5 điểm nhân
hệ số tôi mất đi 7,5 điểm, một số điểm quý giá, nếu
trong năm trước tôi có được số điểm trên thì
tôi đã thi đậu rồi.
Thêm một sai lầm nữa của tôi là trong giờ thi
môn Vạn Vật, do lo sợ như năm trước tôi có lật
sách chép khoảng hai câu. Tôi bị cô
giám thị trong lớp nhìn thấy, và bị thầy
giám thị hành lang bắt gặp. Nhưng cả hai chỉ nhìn
tôi mỉm cười không thu bài và không lập
biên bản vi phạm (không biết họ có lập biên
bản ngầm không). Thi xong về nhà xem kết quả giải
đáp so với bài làm của tôi, tôi thấy
mình chắc chắn thi đậu, nếu tôi tính đúng
tôi có thể đậu hạng Bình Thứ. Đến ngày xem
kết quả, khi chạy xe đi ngang trường đến chỗ bán cây giống
Nguyễn Thị Chín tôi gặp bạn Nguyện kêu tôi lại
và nói: “Mầy thi rớt rồi”. Nghe xong, tôi cảm thấy
trời đất đảo lộn. Tuy thế, tôi vẫn tiếp tục đi đến trường thi xem
kết quả. Tôi càng đau lòng hơn khi thấy người bạn
ngồi cạnh tôi, người mà tôi đã chỉ anh ta
làm đúng hai câu vật lý và bạn ấy
làm bài thi ít hơn tôi lại thi đậu. Đến giờ
tôi cũng không hiểu vì lý do gì
tôi thi rớt. Tôi đã bị thầy cô giám thị
lập biên bản ngầm để đánh rớt hay trong lời giải
bài toán vì làm vội vã tôi
đã làm sai trong phần chứng minh mặc dù khi so với
kết quả bài giải tôi đã ra kết quả đúng.
Mặc dù vậy, không nản lòng, tôi
và người bạn tên Phong cố gắng tiếp tục tìm
kiếm nộp đơn xin vào học trường Quốc Gia Thương Mại. Do
không biết trường toa lạc tại đâu, sau nhiều lần tìm
kiếm không được và thời hạn hoãn dịch đã
hết, tôi và bạn Phong phải nộp hồ sơ xin đi lính
ngành với cấp bậc binh nhì mong được yên thân
khỏi phải ra chiến trường.
Sau sáu tháng quân trường gian khổ tôi được
đổi ra một đơn vị ở Pleiku. Trong thời gian nầy, tiểu đoàn của
tôi có vài tù binh người miền Bắc làm
tạp dịch. Do lòng thương hại và do nhớ tới lời hát
của nhạc sĩ Miên Đức Thắng mà tôi đối xử tử tế với
họ. Cấp trên thấy vậy không bằng lòng và
còn nghi tôi có cảm tình với phía
bên kia nên giao cho an ninh quân đội điều tra.
Tôi không bị kỷ luật nhưng phải chuyển qua đơn vị
khác.
Sau đó vài tháng tôi được đơn vị cho đi
phép về thăm nhà. Khi ngang qua trường Trịnh Hoài
Đức, xe đò ngừng lại để rước học sinh. Số học sinh nầy thuộc lớp
sau vì các bạn cùng lớp khóa 10 và
khóa 11 đã ra trường hết rồi. Đột nhiên, những kỷ
niệm lúc còn đi hoc ùa về và những ẩn ức
vì phải rời trường sớm khiến tôi bật khóc như một
đứa trẻ nít. Trên xe có hai bà già
nhìn tôi ái ngại và nói với nhau chắc
nó mới đi lính nhớ nhà nên khóc như
vậy. Sự thật là tôi không nhớ nhà, chỉ nhớ
trường thôi. Khi về đến nhà tôi càng bị sốc
hơn khi hay tin người bạn ở kế bên nhà tôi (người
bạn cùng học chung với tôi năm lớp nhất khi tôi thi
đậu vào trường Trịnh Hoài Đức bạn ấy thi rớt phải học
Nông Lâm Súc) cùng với một bạn học ở trường
được đi du học bên Nhật Bản. Suốt đêm đó tôi
thức cả đêm, tuy mắt tôi khô ráo nhưng
hình như nước mắt cứ tuôn chảy trong đầu tôi. Một sự
tuyệt vọng ghê gớm ập vào người tôi, có
lúc tôi như mê sảng ước ao ba tôi có
được cách nghĩ như ba của người bạn tôi, không lo
cho gia đình đứa cháu ác ôn mà chăm
lo cho con cái thì tôi đâu có khổ sở
như thế nầy. Tôi lại mơ thấy ba tôi không có
gia đình của người chị và những đứa cháu ác
ôn đeo bám nên ông chăm lo đầy đủ cho con
cái. Cuộc sống của chúng tôi thật hạnh phúc
và tôi được học hành đến nơi đến chốn và
được đi du học như các bạn của
tôi.
Lúc nầy Bộ Giáo Dục đã bỏ kỳ thi tú
tài 1 và thay vào đó là tú
tài phổ thông nên học sinh không còn
phải dang dở rời xa mái trường mà được học hết trọn vẹn
bậc trung học. Tuy đi lính nhưng tôi vẫn cố gắng học
thêm lớp 12 vào ban đêm. Do đời lính
rày đây mai đó nên tôi ghi danh học
thêm lớp 12 của trường hàm thụ Hạnh Nghĩa. Đến kỳ nộp hồ
sơ thi tú tài, ông đại đội trưởng vì
có ác cảm với tôi nên ông không
chịu ký hồ sơ tại ngũ của tôi để tôi làm hồ
sơ dự thi,. Nhưng vì tôi có học thật sự với bằng
chứng rõ ràng là toàn bộ sách lớp
12, tài liệu ôn tập được trường Hạnh Nghĩa gởi đến cho
tôi và nhờ sự can thiệp của các đồng đội làm
việc ở ban tham mưu đại đội, nên ông miễn cưởng ký
hồ sơ cho tôi đi thi.
Không từ bỏ ý định hại tôi, ông bèn cấp
phép cho một đồng đội tôi tên Phú cầm hồ sơ
của những người dự thi trong đại đội (thực chất chỉ có 2 hồ sơ
dự thi mà thôi, vì khi vào lính rồi
ít có người còn theo đuổi việc học hành
nữa) đem nộp cho hội đồng thi Sài Gòn. Khi hết
phép trở lại đơn vị, Phú thông báo là
chỉ nộp một hồ sơ còn hồ sơ của tôi thì không
nộp được. Lúc đó thời hạn nộp hồ sơ chỉ còn 1
ngày và hồ sơ của tôi bị anh ta xé bỏ
nên không thế nào làm lại kịp.
Nhận thấy anh ta có âm mưu hại tôi nên
tôi giận quá cầm cây súng M16 lên đạn
chĩa thẳng vào đầu anh ta bóp cò, vì
quá uất ức nên tôi bật chốt an toàn sang chế
độ tự động bắn hàng loạt với hy vọng càng nhiều
viên đạn găm vào đầu anh ta càng tốt. Cũng may cho
nó, và cũng may cho tôi khỏi bị tội tử hình,
vì từ ngày ra đơn vị đến lúc đó, tôi
chỉ làm việc văn phòng nên không quen sử dụng
súng. Thay vì bật chế độ tự động tôi bật sang chế
độ khóa an toàn vì thế tôi bóp
cò mấy lần mà súng không nổ. Thấy vậy nhiều
người xông đến ôm tôi giật lấy khẩu súng.
Còn anh ta hoảng hốt đứng như trời trồng, mặt xanh như
tàu lá không còn chút máu.
Hai ngày sau các anh trong ban tham mưu đại đội mới
kêu tôi và Phú ra quán cà
phê giải thích rõ câu chuyện. Số là
ông đại úy đại đội trưởng thấy tôi cố gắng học
hành thật tốt nên ông tiên đoán
tôi sẽ thi đậu kỳ thi tú tài và ông
ghét nên mới sai Phú làm như vậy. Còn
Phú chỉ là người thừa hành lệnh của ông ta
mà thôi. Sau sự cố trên tôi phải giảm bớt việc
học để tránh sự căm thù của ông ta.
Trong đời binh nghiệp ngắn ngủi, có một lần tôi và
bạn tôi đã ra tay cứu giúp một người tù binh
miền Bắc bị thương nặng tay còn đang chuyền nước biển, vậy
mà vẫn bị viên sĩ quan an ninh của trung đoàn
liên tiếp hỏi cung. Chúng tôi đã giúp
anh ta thoát chết và thả anh trở về đơn vị cũ khi sư
đoàn của tôi di tản khỏi tỉnh Bình Định. Đó
là nhờ tôi đã được thầy cô trường Trịnh
Hoài Đức dạy cho tôi hiểu được chữ nhân, và
nhờ bản nhạc của anh Miên Đức Thắng giúp tôi
có được tình người.
Ngày di tản khỏi tỉnh Bình Định, trên bờ biển Qui
Nhơn, tôi phải lội ra tàu (vì tàu đổ bộ khi
vào đến gần bờ bị xe thiết giáp cản trở nên
không ủi bãi được phải đậu cách bờ gần 30
mét). Đi được một khoảng khá xa, bỗng dưng tôi bị
hụt chân rơi vào một xoáy nước. Khi nhìn
lên tôi thấy nước ngập khỏi đầu tôi hơn một
mét. Dưới chân thì bị nước rút kéo ra
ngoài khơi. Trong lúc thập tử nhất sinh tự nhiên
những ký ức khi còn học ở trường Trịnh Hoài Đức
hiện rõ mồn một trong đầu tôi và những kỹ năng khi
tập bơi lặn mà các bạn đã dạy cho tôi khi đi
cắm trại ở nhà bạn Thạnh hay những lần tập bơi lặn ở nhà
bạn Hoàng, bạn Điền đã giúp cho tôi
thoát chết một cách kỳ diệu.
Khi sư đoàn di tản về Vũng Tàu, trong lúc dưỡng
quân, tôi có dù về thăm nhà. Khi ra
trình diện, tôi bị ông đại đội trưởng đánh
cho một trận thật kinh hoàng còn hăm dọa sẽ bắn tôi
nữa.
Trưa ngày 30/4/1975, tôi có mặt tại thương cảng
Sài Gòn. Lúc đó còn vài
chuyến tàu rời bến đi ra nước ngoài . Nhà bạn
tôi ở gần đó, gia đình bạn tôi có nhờ
người liên lạc với các tàu trên. Họ nhận lời
giúp đưa chúng tôi ra nước ngoài. Người
liên lạc đến kêu đi ba, bốn lần mà tôi chần
chừ hồi lâu. Chợt nhớ đến trận đòn và lời hăm dọa
bắn tôi của ông đại đội trưởng nên tôi đổi
ý định, nhờ ba của bạn tôi đưa tôi về nhà
người bà con ở đường Yên Đỗ tạm lánh. Ngày
hôm sau, tôi quá giang xe về Bình Dương
đoàn tụ với gia đình.
Trưa ngày l/5/75 tôi mới về đến nhà, gặp mặt người
thân trong gia đình,. Mọi người đều mừng rỡ tưởng
tôi bị mất tích rồi. Sáng hôm sau như mọi
người khác, tôi phải đi trình diện học tập cải tạo
tại ủy ban quân quản tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương được
thay thành Thủ Dầu Một). Trình diện xong tôi được
cấp một giấy chứng nhận và trở về nhà.
Đến lần trình diện thứ 3, tôi gặp người trông coi
lính Sài Gòn rã ngũ đến trình diện
tên là Đ.. Anh là người đã học chung với
tôi từ lớp đệ thất đến lớp đệ tứ. Đến năm lớp đệ tam thì
tôi học lớp 10 B4 còn Đ. học lớp 10 A3. Mừng rỡ vì
gặp được bạn học ngày nào, tôi định tới chào
và hỏi thăm (lúc đó Đ. đứng trên bàn
như thầy giáo còn tôi tay cầm tờ khai lý
lịch đem nộp như học trò nộp bài ) thì tôi
nhận được một thái độ lạnh nhạt của Đ.. Anh ta nhìn
tôi mà tảng lờ như không quen biết. Sự việc
trên làm tôi bị sốc nặng nề vì lúc ở
Pleiku tôi do quá thân thiện và giúp
đỡ những người tù binh mà tôi bị đày ra
làm việc ở sư đoàn bộ binh khổ sở rất nhiều. Mới
đây chỉ hơn một tháng tôi đã cứu mạng một
đồng đội của Đ. ở Qui Nhơn và tôi cũng phải chịu một trận
đòn chí tử suýt chết từ người chỉ huy.
Trình diện xong, tôi thất thểu ra về như người mất hồn
và cảm thấy thật buồn.
Trên đường về nhà, khi đi ngang chợ, qua khỏi nhà
thầy Võ Tấn Phước vài căn phố, tôi bỗng gặp bạn Tư
Hà mặc quân phục quân giải phóng miền Nam
đang đứng nhìn tôi. Bạn Hà học lớp đệ thất P4, khi
lên lớp đệ tam thì học lớp đệ tam B4 chung lớp với
tôi. Học hết năm lớp 11 B4 thì bạn Hà bỗng
nhiên biến mất.
Bị cơn sốc vừa rồi nên tôi giả bộ như không biết
và đi thẳng. Bạn Tư Hà bèn đi theo, đến trước tiệm
chụp hình Đại Đồng bạn Hà tiến lên trước mặt
tôi và hỏi : “Xin lỗi, có phải anh tên Phước
không?”. Tôi gật đầu nói phải. Nghe xong bạn
Hà reo lên: “Mầy không nhớ tao hả Phước? Tao học
chung với mầy ở trường Trịnh Hoài Đức đây. Lúc
còn đi học tao tên Tư Hà, vô bộ đội tao đổi
tên là Nguyễn Thanh Tùng”. Nghe xong tôi
đáp lại: “Tao thấy mầy tao nhớ liền, nhưng tao mới vừa bị một
cú sốc nên tao không dám nhìn”. Bạn
Hà liền nói: “Nếu tao không vào vùng
giải phóng thì tao cũng phải trình diện đi
lính như mầy”.
Sau đó tôi và bạn Tư Hà vẫn thường
xuyên gặp nhau. Bạn Hà đã chuyển công
tác sang làm ở Bưu Điện. Chúng tôi hay đi
uống cà phê, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm
lúc còn đi học ở trường Trịnh Hoài Đức, về những
thầy cô đã truyền đạt kiến thức cho chúng
tôi, kể cho nhau nghe về những tháng ngày gian khổ.
Tôi kể cho bạn Tư Hà nghe về những tháng
ngày bị đày ải lúc còn mặc áo
lính, còn bạn Hà kể cho tôi nghe về những
lần đi công tác ngang qua rừng Cò Mi bị lính
nghĩa quân phục kích suýt
chết.
Thời gian sau, bạn Tư Hà được nhà nước cho đi học đại
học. Bạn chuyển ngành theo học ngành kinh tế kế hoạch.
Trong thời gian học, bạn lập gia đình với một cô bạn học
chung trường. Ra trường về làm ở một đơn vị vật tư của tỉnh.
Những tưởng cuộc đời của bạn Hà sẽ hanh thông, tương lai
sẽ làm một quan chức cao cấp. Ai dè bạn lại bị tai nạn
mà chết. Sau nầy nghe kể lại: trong lúc đứng chờ băng qua
đường trước cửa cơ quan nơi làm việc thì bạn Hà bị
một quái xế chạy xe gắn máy tốc độ cao tông phải.
Số phận con người thật lạ, trong chiến tranh bạn Tư Hà bị bao
nhiêu tay súng nhắm bắn nhưng không chết. Hòa
bình rồi lại bị chết một cách oan
uổng.
*****
Lúc còn mài đũng quần ở mái trường Trịnh
Hoài Đức, mỗi dịp xuân về, tôi thường ước ao được
một lần viết bài đăng trên báo xuân của
trường, nhưng khi cầm bút ngồi thừ ra cả buổi mà
tôi không viết được câu nào. Nay đọc
trên trang web CHS Trịnh Hoài Đức thấy có ra
báo xuân, ước mơ thời xa xưa trỗi dậy. Tôi cố gắng
viết một bài cho báo xuân Trịnh Hoài Đức
2012 nhưng cũng trễ hẹn,. Không phải là văn sĩ nên
tôi chỉ viết lại những kỷ niệm, những hồi ức rất chân thật
của tôi với trường Trịnh Hoài Đức. Không
phóng đại, không tô hồng, chỉ viết ra sự thật
tôi đã trải qua mà thôi vì thế
nên lời văn giản dị, cục mịch, khô khan đôi khi
có lỗi chính tả. Mong các bạn thông cảm
và tôi hy vọng nó sẽ được đăng trên trang web
của CHS Trịnh Hoài Đức hoặc trong số báo Xuân gần
nhất để thỏa niềm ước mơ đã nhiều năm qua không thực hiện
được.