Chuyện
ít người biết
Học sinh Trịnh Hoài
Đức chiếm giải nhứt
cuộc thi luận văn
toàn quốc
Bài viết: Minh Tâm
Hình ảnh: Nguyễn Đình Dũng
Dẫn nhập:
Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương tuy nhỏ nhưng
có rất nhiều thành tích về học tập của học sinh
rất đáng khích lệ. Một trong những thành
tích đó là chiếm giải nhứt cuộc thi luận văn do
tuần báo Thằng Bờm tổ chức.
Thằng Bờm là tuần báo do nhà văn Nguyễn Vỹ
làm chủ bút với độc giả tập trung vào lứa tuổi
thanh thiếu niên. Năm 1970, ông tổ chức một cuộc thi luận
văn với đề tài phân tích và phê
bình bài ca dao Thằng Bờm. Cuộc thi nầy dành cho
học sinh các trường trung học trên toàn quốc. Ban
giám khảo gồm các nhà văn nổi tiếng đương thời
là Minh Quân, Võ Phiến, Tam Ích và
Bình Nguyên Lộc.
Có rất nhiều học sinh từ khắp nơi tham gia. Sau khi chấm
bài, người trúng giải đồng hạng nhứt là Nguyễn
Đình Dũng, học sinh lớp Đệ Nhị trường trung học Trịnh
Hoài Đức – Bình Dương. Đồng hạng nhứt là một học
sinh trường trung học Hùng Vương – Quảng Ngãi.
Nguyễn Đình Dũng đã theo học trung học
Trịnh Hoài Đức – Bình Dương từ lớp Đệ Thất tới lớp Đệ
Tam. Cuối năm 1970, theo gia đình về Sài Gòn học
trung học Chu Văn An. Bài luận văn của anh đăng trên
báo Thằng Bờm số 29. Bài tường thuật về buổi Lễ
phát giải có cả hình ảnh ông Mai Thọ Truyền
– Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa trao giải thưởng cho
Nguyễn Đình Dũng, được đăng vào tuần san Thằng Bờm
số 30.
Tôi có đọc bài viết và hiểu tại sao
Dũng đoạt giải thưởng nầy. Đó là nhờ anh nhớ những lời
giảng của GS Nguyễn Tư Sán dạy Việt Văn. Thầy đã dạy
bài nầy khi chúng tôi học lớp Đệ Tam ở Trịnh
Hoài Đức. Thầy giảng rất kỹ nên chúng tôi
làm bài luận rất dễ và nhanh. Nguyễn Đình
Dũng có công diễn tả lại những lời thầy dạy cụ thể qua
bài luận đồng thời có thêm thắt một số ý
kiến cá nhân rất đặc sắc, do đó anh xứng
đáng chiếm giải nhứt trong cuộc thi.
Tuần báo Thằng Bờm chỉ phát hành được vài
chục số thì đình bản vì chủ bút Nguyễn Vỹ
mất đột ngột vì tai nạn giao thông. Sau 40 năm, bài
viết nầy đã thất lạc. Tôi có đọc bài luận
của Nguyễn Đình Dũng nên ráng nhớ viết lại như dưới
đây. Hy vọng ghi lại được những nét chính của
bài luận để bạn đọc biết thêm và cùng vui
với Nguyễn Đình Dũng cũng như tự hào về Trường Trung Học
Trịnh Hoài Đức, nơi đã đào tạo được những học sinh
ngoan, xuất sắc của một thời ...
******
Thằng Bờm-
Bài ca dao thâm thuý của người Việt
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, bài ca
dao Thằng Bờm được rất nhiều người biết. Bài thơ theo thể lục
bát như sau:
Thằng Bờm
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Với từ ngữ phổ thông, dễ nhớ, bài thơ đã được
truyền khẩu từ đời nọ qua đời kia. Thằng Bờm trở thành một
nhân vật nổi tiếng tiêu biểu cho sự hiền lành nhưng
không ngu dốt. Dưới đây ta hãy thử phân
tích bài thơ và tìm hiểu những ý
nghĩa sâu sắc của nó.
Bài thơ có tựa đề Thằng Bờm. Qua đó ta có
thể hiểu không gian của nó là vùng đồng
quê Việt Nam. Ở đó tên của người dân thường
được đặt một cách bình dân, không hoa mỹ.
Tác giả dùng chữ “thằng” để gọi nên ta có
thể hình dung Bờm là một chú bé chừng
trên dưới mười tuổi mà thôi.
Câu chuyện bắt đầu với hai câu thơ:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò
chín trâu
Quạt mo làm bằng mo cau. Đây là loại quạt
thông dụng ở nhà quê. Người ta dùng dao cắt
tàu cau khô thành hình cái quạt
và dùng để quạt cho mát vào những buổi trưa
hè. Quạt mo là một vật không có giá
trị gì cho lắm, vì ai cũng làm được và
thường không mất tiền để mua. Không biết vì sao
mà chú bé Thằng Bờm lại có một cái
quạt mo và rất thích cái quạt nầy.
Phú ông là một người giàu có ở trong
vùng. Ông muốn gì được nấy. Thấy Bờm có
cái quạt mo thì ông hơi ganh tị và sau
đó ông mới dụ nó đổi quạt bằng ba con bò
và chín con trâu. Đây là cả một
tài sản rất lớn ở vùng nông thôn. Sở hữu ba
con bò, chín con trâu, Bờm có thể trở
nên giàu có và được nhiều người nể trọng.
Bờm có chịu đổi không? Ta hãy đọc tiếp:
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao
sâu cá mè
Bờm không chịu đổi. Lạ thật!. Một sự trao đổi rất có lợi
cho Bờm tại sao em không
chịu?. Ta có thể giải
thích như sau:
Có thể Bờm không hiểu giá
trị của ba con bò và chín con trâu lớn như
thế nào. Một chú bé mới 10 tuổi nếu sở hữu ba
bò chín trâu thì chắc cũng không biết
làm gì.
Có thể Bờm rất khôn. Nó biết giá trị của ba
bò chín trâu là lớn chớ. Nhưng nó
không chịu đổi quạt với phú ông. Bởi vì
nó hiểu rằng: đây là một cuộc trao đổi không
cân xứng. Phú ông có thể gạt nó để lấy
quạt mà không đổi ba bò chín trâu cho
nó. Nếu nó có khiếu nại, thưa kiện với quan
thì không ai tin rằng một cái quạt mo tầm thường
lại đổi được với ba bò chín trâu là một
tài sản lớn.
Tóm lại không đổi là tốt nhứt. Quạt của mình
vẫn còn của mình. Tài sản to lớn nhưng chỉ
là lời hứa, không chắc chắn sẽ có! Ta có thể
thấy được đây là một Thằng Bờm rất khôn chớ
không phải là một đứa trẻ khờ khạo như mọi người thường
lầm tưởng.
Thấy Bờm không chịu đổi, phú ông dụ tiếp: “Nếu
cháu không chịu đổi ba bò chín trâu
vậy hãy đổi cái quạt với một ao sâu đầy cá
mè nhé?”. Ôi, cả một ao cá rất to lớn
và có rất nhiều cá mè. Tha hồ mà bắt
lên đem bán lấy tiền xài thoải mái.
Ông dụ tiếp như vậy. Bờm có chịu đổi hay không? Ta
hãy đọc tiếp:
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Ủa, Lạ kìa, Bờm lại không chịu đổi nữa. Phú
ông lẩm bẩm như vậy. Cả một ao cá mà chỉ đổi một
cái quạt mo. Thằng nầy ngu quá. Phú ông bực
tức nghĩ trong bụng như vậy. Ông không hiểu rằng, Bờm
nhà ta, vì còn nhỏ nên:
Có thể em không biết giá trị của ao cá. Mới
chín, mười tuổi mà có cả một ao cá
thì em cũng chẳng thích và chẳng biết làm
gì.
Có thể em rất khôn. Em biết rằng phú ông chỉ
gạt em, nói là đổi quạt lấy ao cá, nhưng
không bao giờ ông giao ao cá cho em vì
không ai tin rằng ông có thể đổi một cái ao
cá giá trị lấy một vật tầm thường như một cái quạt
mo.
Thấy Bờm không chịu đổi quạt, phú ông dụ tiếp:
“Thôi nếu vậy cháu hãy đổi quạt lấy một bè
gỗ lim đi?” Gỗ lim đem về xây nhà tốt lắm. Ông
nói tiếp như vậy. Bờm có chịu đổi không. Ta
hãy đọc tiếp:
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm lại lắc đầu. Bờm lấy gỗ lim về làm gì. Xây
nhà thì cần nhiều công. Rồi đất đâu mà
xây. Đúng là phú ông dụ Bờm một vật
tuy quý giá đối với ông mà lại vô
ích đối với Bờm.
Kỳ nầy phú ông khôn hơn. Ông nghĩ rằng:
“À, chắc thằng bé nầy ham chơi. Nó không
thích tài sản, vậy ta hãy dụ nó bằng đồ
chơi. Ông nói: “ Nầy cháu, nếu cháu
không thích gỗ lim thôi hãy đổi cái
quạt lấy con chim làm bằng đồi mồi đi”. Con chim nầy đẹp lắm.
Cầm chơi rất thích. Đem khoe với bạn cũng hay lắm. Bạn
cháu sẽ trầm trồ vì cháu có món đồ
chơi rất đẹp. Dụ dỗ như vậy mà Bờm có chịu đổi
không? Ta hãy đọc tiếp hai câu cuối:
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Bờm lại lắc đầu. Chim đồi mồi tuy đẹp nhưng chỉ là một
món đồ chơi. Chơi hoài sẽ chán. Còn giữa
trưa hè có quạt mo quạt rất mát, thật thú
vị hơn nhiều.
Thấy Bờm cứ lắc đầu hoài, phú ông đã
phát tức lên rồi. Cái mà ông muốn
thì phải được. Thằng bé nầy thật khó dạy. Dụ
cái gì cũng không được. Lúc nầy giữa trưa
hè, trời đang nóng bức. Có được cái quạt
nầy để quạt thì thích thú biết bao!. Có thể
lúc nầy phú ông đang đi ăn giỗ ở đâu về.
Đường xa, đi nhiều, nên ông đang ra mồ hôi và
rất cần cây quạt mo để quạt. Sẵn nắm xôi trên tay
ông hỏi Bờm: “Vậy có nắm xôi nầy, Bờm có chịu
đổi lấy cây quạt không?”. Lúc nầy thì Bờm
cười. Chữ cười nầy có nghĩa là gì?. Không
phải dễ hiểu đâu.
Trong cách cư xử của người Việt chúng ta, đôi khi
cái cười rất khó hiểu. Trong trường hợp nầy chữ cười ở
đây có thể có 2 nghĩa: Cười mỉa mai, khinh dể
và cười vui chấp thuận.
Có thể Bờm cười mỉa mai. Trong bụng em nghĩ rằng: “Lão
phú ông keo kiệt nầy thật tức cười. Bao nhiêu
tài sản, bao nhiêu đồ chơi quý đẹp đem đổi với
cây quạt của ta mà ta còn chưa đổi, huống chi đem
quạt chỉ đổi lấy nắm xôi”.
Có thể Bờm cười vui và chấp thuận đổi chiếc quạt của em
lấy nắm xôi. Đó chỉ vì em nghĩ rằng đây
là một cuộc trao đổi: thuận mua vừa bán. Hai vật
có giá trị tương đương. Nắm xôi thì
có ngay và có thể ăn no lòng. Đổi mấy thứ
kia chưa chắc đã có còn lấy nắm xôi
thì chắc chắn sẽ có ngay. Ăn xong ta sẽ đi kiếm mo cau
làm quạt mới. Dễ quá.
Tác giả kết thúc bài thơ bằng chữ cười rất
khó hiểu như vậy và để cho người đọc tự suy nghĩ...
Trên đây là những phân tích về nội
dung. Về hình thức, ta thấy người sáng tác
đã sử dụng những câu chữ hết sức bình dân.
Câu thơ hơi lặp đi lặp lại nhưng nhờ đó mà dễ nhớ
dễ truyền khẩu từ đời nọ sang đời kia. Bờm là một chữ thuần
Việt, nếu sử dụng chữ Hán hay Nôm để viết thì
không biết sẽ viết như thế nào?. Thế nhưng bài ca
dao đã truyền khẩu từ bao đời nay cho thấy nó rất được
dân ta yêu thích.
Qua phân tích bài thơ Thằng Bờm, ta thấy rằng người
sáng tác đã gởi gắm tâm tình của
mình rất nhiều trong đó. Bài thơ thể hiện sự đấu
tranh giữa người giàu và kẻ nghèo. Giàu
thì muốn giàu thêm, muốn chiếm đoạt của kẻ
khác. Kẻ nghèo nhưng không ngu, cụ thể như
chú Bờm không vì những lời hứa hão huyền của
phú ông mà chịu trao đổi cái quạt mo, một
vật tuy nhỏ, ít giá trị nhưng do công sức của
mình làm ra. Đọc bài thơ Thằng Bờm ta thấy văn
chương bình dân của dân tộc ta rất thâm
thuý và rất đáng tìm hiểu./.