Trường Nam
Châu Thành và những năm tiểu học
Từ Minh Tâm
Năm 1959 tôi học mẫu giáo tại ngôi trường nằm trước
Nhà Thờ Phú Cường. Trường có hai lớp, một lớp nam
và một lớp nữ (sau nầy trường đổi thành trụ sở Ty Thanh
Niên). Năm sau, tôi được chuyển lên học lớp năm
trường tiểu học Nam Châu Thành – Bình Dương. Chương
trình tiểu học lúc đó có năm lớp. Mới
vô học lớp năm, sau đó lên lớp tư, ba, nhì,
nhứt thì thi tiểu học và chuyển qua trung học.
Trường Nam Châu Thành nằm trên đường Bác Sĩ
Yersin, gần Ngã Sáu. Phía trước trường, trên
đồi cao là Nhà Thờ Phú Cường. Phía sau
là Chùa Bà Thiên Hậu. Bên hông
trái của trường là một đường nhỏ tên là
đường Nguyễn Du. Đường nầy dẫn vào trường Nữ Châu
Thành và nếu đi tiếp thì sẽ tới Quốc Lộ 13 hướng
về phía Nhà Ga Xe Lửa.
Trường nằm trong một khu đất rộng. Giữa trường là một sân
tráng xi măng sạch sẽ. Hai bên là hai dãy
lớp học cách nhau khoảng 40 mét. Trước các lớp học
có trồng cây tạo bóng mát nhưng cây
không lớn lắm. Những cây nầy có hoa màu
vàng, vào mùa hè sẽ nở hoa rất đẹp.Mỗi
dãy có 6 lớp được xây bằng gạch lợp ngói.
Nền lớp được xây khá cao so với sân trường.
Vách tường quét vôi màu vàng kẻ chỉ
màu nâu. Trần lớp học được sơn màu trắng.
Phía trước nối liền hai dãy lớp là một hành
lang có mái che. Giữa hành lang là lối
vào. Bên tay phải hành lang là văn
phòng. Trước văn phòng có treo một cái
trống. Phía ngoài, gần đường là hàng
rào xi măng và cổng sắt. Phía sau gần tường
rào với Chùa Bà là dãy nhà vệ
sinh. Bên trái, trong cùng, là nhà
của ông lao công, một hồ nước, và một cái
miễu nhỏ, không biết thờ ai.
Đây có thể là trường tiểu học lâu đời nhứt
của tỉnh nhà. Tôi không biết trường xây khi
nào nhưng khi tôi vào học năm 1960 thì
có thể trường đã được xây khoảng 50-60 năm trước
rồi. Trường cũ lắm. Trần nhà có khi bị tróc vữa.
Gạch lót nền thì mòn nhẵn có khi bị
tróc mất. Nhà vệ sinh thì hư và nghẹt
hoài nên không được sạch sẽ cho lắm. Phía
ngoài, quanh trường, ở phía sau chùa Bà hay
trên đồi nhỏ của Nhà Thờ Phú Cường lúc
đó cây cối còn rậm rạp, um tùm. Ngoài
ra, do trường ở sát vách Chùa Bà nên
tới rằm tháng giêng thì bên chùa ồn
ào, chiêng trống khiên cho việc học hành
bên đây cũng khó. Thử hỏi bạn làm sao học cho
vô khi tiếng trống cù tùng xèng đầy hấp dẫn
ở bên kia?
Về Ban Giảng Huấn, theo tôi biết, trước khi tôi vào
học thì hiệu trưởng của trường là ông Đốc Lưỡng
(Nguyễn văn Lưỡng). Còn lúc tôi vào học
khoảng thập niên 1960 thì hiệu trưởng trường Nam những năm
1960 là thầy Nguyễn văn Mãn. Tôi học lớp năm với
thầy Thủ. Lúc đó học trò chỉ biết tên thầy
chớ ít khi biết họ. Những thầy khác đã dạy ở
trường Nam và có nhiều người biết là thầy Răng,
thầy Hạc, thầy Que, thầy Phúc, thầy An, thầy Sử, thầy Thơ, thầy
Nhơn, thầy ThuTrong số các thầy nầy thì thầy Hạc, thầy
Răng, thầy Nhơn ... tương đối nổi tiếng hơn vì quý thầy
rất khó và phạt học trò rất nặng. Thầy Nguyễn
Trung Thu cũng có nhiều người biết vì thầy rất đẹp trai,
đàn hát giỏi và là con của ông đốc An
(Nguyễn văn An - Hiệu Trưởng Trường Tư Thục Văn An ở Ngã
Sáu). Sau nầy thầy Thu lên làm Thanh Tra Tiểu Học.
Giờ học ở trường chia làm hai ca. Những lớp lớn học buổi
sáng từ 8-12 giờ. Lớp nhỏ học buổi chiều từ 1-5 giờ. Học hai
tiếng thì ra chơi 10 phút. Học trò đi học mặc đồng
phục quần cụt màu xanh, áo trắng bỏ vào trong
quần, mang phù hiệu trên túi áo. Khi
nào đi lễ hay đi tuần hành ngoài đường phố
thì trường phát cho một cái mũ beret màu
xanh dương và một khăn quàng màu vàng viền
xanh. Tôi học buổi chiều. Tuy học lúc 1 giờ mà hơn
12 giờ đã tới trường nhưng tôi không vô học
liền đâu mà còn la cà mua quà
bánh lặt vặt do những người bán dạo ở trước cổng như
cà rem, me ngào đường, kẹo kéo ... Mấy ông
bán cà rem, kẹo kéo hay có bàn quay
số. Nếu quay trúng số lớn thì sẽ được 2-3 cây ...
Ngoài ra còn có những người bán đồ chơi,
hình, sách truyện cũ ... Tiền lúc nầy rất
có giá, tôi nhớ lúc đó còn
xài tiền năm cắc và một đồng.
Đúng 1 giờ, tiếng trống thùng thùng báo
hiệu giờ vào học. Lớp của tôi nằm tuốt bên trong,
gần nhà của ông lao công. Trong lớp, trên
vách tường cao trước mặt học sinh có treo hình của
tổng thống. Phía dưới là bảng đen dài. Trên
góc trái của bảng có ghi sỉ số và số học
sinh nghỉ học. Giữa bảng là hàng chữ: Thứ Hai ngày
, tháng , năm 1960. Bên trái là bàn
làm việc của thầy. Trên bàn có sổ điểm danh
và sách vở. Hai bên vách tường thường
có những lọ trầu bà làm bằng những bóng
đèn cũ đổ nước vào và treo trên tường. Tường
phía sau có một số câu khẩu hiệu như: Tiên
học lễ, hậu học văn hay Công cha như núi Thái Sơn -
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ... Đôi khi lớp học
còn trang trí bản đồ Việt Nam nữa. Bàn học sinh
là những bàn dài. Ghế cũng vậy. Đó
là những băng ghế. Mỗi bàn có thể ngồi được 5 đứa.
Lớp có hai dãy bàn, mỗi dãy có 5
bàn dài như vậy mỗi lớp học lúc đó
có khoảng 50 học sinh. Mỗi ngày, thầy phân
công một tổ làm vệ sinh. Lúc đó chúng
tôi phải vô sớm để quét lớp cho sạch.
Năm lớp năm chúng tôi học tập đọc, tập viết, toán.
Sách tập đọc có hai cuốn: Nửa năm đầu thì học vần
và nửa năm sau thì học đọc. Trang bìa sách
học vần có hình cây đèn dầu và
có hai câu: “Sách quốc ngữ - Chữ nước ta” hai
bên. Tôi nhớ hình như học trò lớp năm bắt đầu
học hai chữ i và t chớ không phải a, b như bây giờ.
Học viết thì có tập kẻ hàng đôi và
viết bằng viết chì. Chữ tập viết đầu tiên là chữ i.
Học toán thì có bảng đen nhỏ. Làm
toán xong thì giơ lên cho thầy coi có
làm đúng không. Học hết lớp năm thì
đã có thể đọc báo được rồi.
Năm lớp tư chúng tôi tiếp tục học Toán, Tập
Làm Văn, Học Thuộc Lòng, Thủ Công, Hát.
Lúc nầy học trò bắt đầu dùng tập kẻ hàng
chiếc, bao bằng giấy và có dán nhãn.
Chúng tôi cũng viết bài bằng viết mực. Em
nào cũng phải có một cây viết và một
bình mực (loại không đổ). Khi viết thì chấm mực
vào bình để viết. Mực viết thường có màu
tím hay xanh dương. Khi nào mực hơi nhiều thì chậm
bằng tờ giấy chậm (hay dùng phấn trắng để lăn qua, phấn sẽ
hút mực dư). Do đồ dùng nghèo nàn như vậy
nên bình mực có khi bị bể, nứt ... làm dơ
tập. Lúc đó chúng tôi sẽ bị ăn
đòn. Tôi đã bắt đầu biết đọc truyện tranh
và các truyện ngắn hay tạp chí xuất bản
hàng tuần như Măng Non và Tuổi Trẻ mua ở nhà
sách Phát Anh. Giá bán mỗi cuốn là 1
đồng (Măng Non) hay 2 đồng (Tuổi Trẻ). Báo Tuổi Trẻ lúc
đó có chuyện Tây Du Ký bằng tranh rất hấp
dẫn. Sách truyện khác thường chỉ có 8 trang
trích dịch từ truyện Một Ngàn Lẽ Một Đêm, Lucky,
Tin Tin ... Sau nầy có chuyện xứ lùn Xì Trum,
Tí Hon Thần Lực ...
Năm lớp ba học nhiều môn hơn: Đức Dục, Công Dân,
Cách Trí (Vạn Vật), Sử Ký, Địa Lý,
Chánh Tả, Tập Làm Văn, Toán, Thủ Công,
Hát ... Do học nhiều môn nên một cuốn tập 100 trang
thường được chia ra hai phần để chép bài cho hai
môn. Cuối giờ học, cả lớp chúng tôi thường phải đọc
cửu chương: “Hai lần một là hai, hai lần hai là bốn ...”.
Lúc này chúng tôi đã biết viết
khá rành rồi. Tới mùa Noel và Tết
thì chúng tôi đã biết mua thiệp và
viết vài chữ để gởi chúc nhau với bạn bè.
Một bài học thuộc lòng hồi học lớp ba là
bài Luật Đi Đường, chắc bạn còn nhớ tới nay là:
“Ngoài đường xe chạy dập dìu
Em nên cẩn thận sợ nhiều rủi ro
Đi tay mặt mới khỏi lo
Muốn băng qua lộ mắt nheo ngó chừng
Ngắm xem sau trước ân cần
Thấy xe sắp đến thì đừng chạy qua
Đôi khi xe trước vừa qua
Xe sau chạy tới mà ta không ngờ
Ngã tư xem xét bốn bề
Xe to xe nhỏ sắp kề cận ta…”
Năm nầy, trường thiếu lớp học nên phải học thành ba ca. Ca
một từ 6-10 giờ sáng. Ca hai 10-2 giờ trưa. Ca ba từ 2-6 giờ
chiều. Học ba ca rất cực. Nhóm sáng thì phải dậy
sớm. Nhóm trưa thì đói bụng. Nhóm chiều
thì về nhà quá tối.
Kỷ niệm mà tôi nhớ nhứt là vào năm lớp ba,
các trường trong tỉnh cùng nhau tổ chức Tết Trung Thu.
Chúng tôi thi nhau làm lồng đèn và
tới chiều ngày Rằm Tháng Tám thì
cùng nhau hội ở trường Nam Châu Thành. Sau
đó đoàn học sinh các trường đi diễn hành
vòng quanh thị xã. Đó là một đêm thật
thanh bình và thật vui. Không biết ngày nay,
ở Việt Nam các em nhỏ có được ăn Tết Trung Thu như vậy
không?.
Năm lớp ba tôi học cô nhưng tôi quên mất
cô tôi tên gì. Cô không khó
lắm nhưng cũng có một cây thước để gõ trên
bàn khi nào lớp mất trật tự. Em nào quậy
quá thì cô bắt quỳ gối trước lớp, hay có khi
quỳ ngoài hành lang. Có lần cô phạt khẻ tay
một bạn kia. Về nhà bạn ấy mét ba má. Hôm
sau, má của nó vào trường gây sự khiến cho
cô tôi cũng hơi vất vã để giải quyết.
Qua năm lớp nhì thì do thiếu lớp, chúng tôi
bị chuyển vào trường Nam Chi Nhánh (kế bên một biệt
thự làm văn phòng Ty Giáo Dục, gần ngã ba
Cây Sao Quỳ - sau nầy biệt thự nầy là văn phòng
Quận Châu Thành). Ngoài học sinh từ Nam Châu
Thành đến học, tôi còn thấy có những lớp cao
hơn của một số anh chị học trung học vì trường nầy hình
như là Trường Bán Công lúc đó. Học
lớp nhì chúng tôi đã viết bằng viết
máy. Những hiệu viết nổi tiếng là Parker và Pilot.
Loại nầy xài rất tốt và lâu hư nhưng rất mắc tiền
nên tôi không có tiền mua mà chỉ mua
loại viết máy của Đài Loan hiệu Tatung. Loại viết nầy
xài rất mau hư vì làm bằng chất dẽo cứng và
dễ nứt. Hàng nội hoá của Việt Nam lúc đó
cũng chưa sản xuất được cây viết máy.
Năm lớp Nhì, tôi học thầy Bình. Các
môn học gồm Cách Trí, Sử Ký, Địa Lý,
Toán, Luận Văn ... Lúc nầy mỗi tuần phải làm một
bài luận. Khi thì tả đồ vật, khi thì kể chuyện ...
Tôi học lớp Nhì B. Có một lần thầy Bình bận
việc gì đó trên văn phòng. Lớp không
có ai quản lý nên chạy nhảy lung tung, ồn ào
như cái chợ. Thầy Nhơn dạy lớp Nhì A kế bên qua bắt
mỗi đứa xoè tay ra khẻ một khẻ đau điếng. Có chạy nhảy
hay không đều bị phạt như nhau. Bị phạt một lần thì tởn
tới già ...
Năm lớp Nhứt, tôi học thầy Vân. Chúng tôi
chú tâm học ba môn chánh là Câu
Hỏi Thường Thức, Toán và Luận văn. Tôi nhớ
rõ trong phần Câu Hỏi Thường Thức có môn Sử
Ký mà bài đầu tiên có tựa là:
“Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà”.
Tựa bài rất bình dân nhưng làm mình
nhớ hoài về một việc làm nhục nhã của một
ông vua thời Lê mạt. Về Luận Văn chúng tôi học
cách bình luận những câu ca dao tục ngữ như Uống
Nước Nhớ Nguồn, Ăn Trái Nhớ Kẻ Trồng Cây... Ngoài
ra, chúng tôi còn học cách viết một
lá thư thăm hỏi nữa. Về Toán, học tới lớp năm thì
phải biết giải những bài toán đố rất khó như chia
tiền lời khi buôn bán theo tỉ lệ phần hùn, hoặc
biết cách chia đất đai trong những bài toán
hình học. Năm nầy là năm thi chuyển cấp nên phải
học hai buổi. Sáng học từ 8-12 giờ. Trưa học từ 2-4 giờ. Từ
nhà tôi ở Chánh Hiệp vô tới trường đi bộ
khá xa chừng hơn 3 km. Trưa về ăn cơm xong, đi ngược lại,
vô tới trường là mệt lắm rồi, nên thật ra học cũng
không được bao nhiêu.
Trường ở xa tận Ngã Ba Cây Sao Quỳ, khi đi học
chúng tôi hay đi theo đường Bác Sĩ Yersin. Đường
xa, trưa nắng nên khá mệt. Đôi khi chúng
tôi được một bác đánh xe bò tốt bụng cho
có giang thì thích lắm. Đi học về có khi cả
bọn rủ nhau về bằng đường rừng. Đó là con đường đi từ
phía sau trường, theo các đường mòn trong
các thôn xóm nằm hai bên một con rạch, sau
đó vòng xuống xóm Giếng Máy rồi xuyên
qua quốc lộ 13 về nhà. Đường rừng nầy có một đoạn
có rất nhiều trái cây hoang như trái sim,
nhãn lồng ... Chúng tôi hay hái mấy
trái nầy ăn chơi. Nhãn lồng trái nhỏ, nhiều hột ăn
ngọt. Trái sim màu tím, ăn xong bị tím cả
miệng thấy rất tức cười.
Năm nầy lúc rảnh thì thầy dạy những bài hát
rất hay giúp nâng cao lòng yêu nước như:
Quyết Tiến, Khỏe Vì Nước, Bạch Đằng Giang, Nhà Việt Nam,
Những Nẻo Đường Việt Nam ... Những câu hát như:
Quyết tiến ta giống dân Lạc Hồng
Liều thân sống tranh đấu giữ gìn non sông
Quyết tiến khi nước non nguy biến
Máu anh hùng ngàn đời nhuộm thắm núi
sông
Quyết tiến khi nước non reo hò
Lòng cương quyết tranh đấu giữ gìn tự do
Quyết tiến khi nước non nguy biến
Máu anh hùng rạng danh nòi giống Tiên Rồng
Vết oai hùng ngàn xưa nay còn lưu dấu
Gương sử xanh nước Việt ngàn đời hùng anh
Chí quật cường toàn dân hy sinh tranh đấu
Khắp núi sông rạng danh nòi giống Tiên Rồng...
đã nung nấu trong tôi lòng yêu quê
hương đất nước, sẵn sàng liều thân tranh đấu cho dân
tộc. Ngày nay trong hoàn cảnh đất nước tuy thanh
bình nhưng lảng vảng bóng ngoại xâm, không
biết trong chương trình học có dạy những điều như vậy hay
không?.
Tôi còn nhớ những bạn học của tôi năm lớp nhứt
là: Lê Thuận Cảnh, Lê Quang Phước, Huỳnh Francoise,
Trần Công Hảo, Vương Phát Đạt, Sơn, Hà, Nhựt,
Tài, Lôi Phong, Việt Cường ... Nhiều bạn là người
Hoa. Đa số đều ở ngoài khu chợ Phú Cường. Lê Thuận
Cảnh lớn hơn tôi một tuổi, học rất giỏi. Năm lớp nhì
nó đứng nhứt lớp, nhưng tới năm nay thì học hơi yếu
nên bị tôi qua mặt.
Cuối năm học luôn luôn có lễ phát thưởng. Học
hạng nhứt tới hạng năm thì có phần thưởng. Trong lễ
có phần văn nghệ phụ diễn. Lúc nầy chúng tôi
tập ca hát, đóng kịch để chuẩn bị đóng góp
cho buổi lễ. Trường Nam và Nữ Châu Thành tổ chức
chung. Bên trường Nam thường có các màn kịch
vui. Bên trường Nữ thường có các màn vũ.
Buổi lễ có sự hiện diện của ông Tỉnh Trưởng và
các vị phụ huynh. Năm lớp nhứt tôi học giỏi, đứng nhứt lớp
nên được lãnh phần thưởng cũng nhiều. Ba má
tôi cũng rất vinh dự nên gặp ai ông bà cũng
khoe có thằng con học giỏi.
Về mùa hè, trường Nam Châu Thành thường được
dùng làm nơi tổ chức thi Tiểu Học. Tuy nhiên, tới
năm 1965 thì chúng tôi không cần thi nữa
vì chỉ cần đậu các cuộc thi lục cá nguyệt trong
lớp là coi như tốt nghiệp. Kỳ thi Tiểu Học chỉ dành cho
người lớn. Họ thi lấy bằng để có thể tăng ngạch trong công
chức, lên lương và đỡ phải lao động cực khổ.
Nhân nói về trường Nam Châu Thành tưởng cũng
nên nhắc sơ qua về trường Nữ Châu Thành. Trường Nữ
nằm hơi khuất trên đường Đồ Chiểu. Kiến trúc trường Nữ
cũng tương tự trường Nam Châu Thành, nhưng sân chơi
trồng cỏ chớ không tráng xi măng. Trường do các
cô giảng dạy. Ban giảng huấn nổi tiếng nhứt là bà
Hiệu Trưởng Đinh Thị Phạn, cô Phú, cô Loan, cô
Năm Bèo ... Sau 1975, trường nầy trở thành trường Mẫu
Giáo Măng Non.
Năm 1965, tôi đậu vào Trịnh Hoài Đức nên
không biết thêm về sinh hoạt của trường Nam Châu
Thành từ đó. Khoảng năm 1973, trong khuôn
viên trường Nam Châu Thành được xây thêm
một Hội Trường lớn của Ty Tiểu Học. Ở đó có một
bàn bóng bàn nên vào mùa
hè, tôi hay đến đánh bóng bàn ở
đó. Sân trường cũng được tráng xi măng và
giăng lưới thành sân quần vợt. Sau 1975, trường đổi
tên là Phú Cường 2, sau đó thành
Nguyễn Du. Trường cũ hư hỏng nhiều bị phá bỏ xây mới. Mặt
tiền trường quay qua đường Nguyễn Du. Trường Nam Chi Nhánh hiện
giờ đổi tên là Trung học cơ sở Chu văn An.
Bây giờ về Bình Dương, tới ngay Ngã
Sáu, hỏi người đi đường chắc không ai biết Trường
Nam Châu Thành là trường nào, ở đâu,
vì rất nhiều dân Bình Dương ngày nay
là từ nơi khác đến. Bài viết chỉ mong nhắc lại một
ngôi trường từng đào tạo cho tỉnh nhà nhiều
nhân lực giỏi mà bây giờ đã ở tuổi 60-70 ...
Còn những thầy cô quý mến có tên trong
bài viết chắc đã già lắm hay đã ra người
thiên cổ. Xin thắp một nén hương lòng tưởng nhớ về
công ơn khai sáng của quý thầy cô với tất cả
sự kính trọng và quý mến. Ngoài ra,
đây chỉ là một bài thuộc loại nhớ gì viết
nấy trong thời gian đầu thập niên 1960. Nếu độc giả còn
nhớ điều gì khác về một ngôi trường có lịch
sử lâu đời thì xin bổ túc thêm về một
ngôi trường có nhiều kỷ niệm./.