Lái Thiêu - nhớ
nhớ quên quên
Lưu Thanh Bình
1.
Người ta thường nói: “kẻ đi
xa hay nhớ về quê cũ, người già hay sống với những hồi
ức”. Như tôi đây, tuổi tác thì chưa thể gọi
là già vì mới có 58 cái xuân
xanh; lại cũng chưa hề xa xứ lâu, cuộc sống từ nhỏ đến lớn chưa
ra khỏi lưu vực sông Sài Gòn, từ học hành
đến làm việc hay vui chơi giải trí đều quanh quẩn hai bờ
tả hữu. Nên viết về quê hương Lái Thiêu cũng
giống như người mù sờ voi, nhưng trộm nghĩ đời người là
hữu hạn, những gì ta thấy, cảm nhận hôm nay thì
ngày mai đã trở thành ký ức, huống chi
Lái Thiêu của ngày hôm nay đã
khác Lái Thiêu xưa khá nhiều; nếu
không ghi chép lại thì những ký ức ấy sẽ bị
bụi thời gian phủ mờ nhanh chóng, vài mươi năm sau
có còn ai biết đến, ấy là một thiệt thòi
đáng tiếc cho lớp hậu sinh , hay là một lỗi lầm
đáng trách của người biết đọc biết viết đối với quê
hương đất nước chăng? Nên mạn phép ghi chép ra
đây những gì còn nhớ được về Lái Thiêu
của tôi thời thơ ấu; trước để ôn cố tri tân, sau gọi
là “mua vui cũng được một vài trống canh”. Đầu năm đầu
tháng, nói chuyện vui lấy hên, nên nếu kể
chuyện xưa lan man không đầu không đuôi hay có
hơi cường điệu mong các bạn bỏ quá cho, xin
cám ơn trước. Thật hân hạnh nếu được quý đồng hương
xa gần đóng góp, nối dài thêm những kỷ niệm
hoài hương như chút tình uống nước nhớ nguồn.
Đầu tiên, xin nói về
con sông chợ, con sông có hình dạng cong cong
chạy từ đầu vàm vô tuốt trong Phú Hội rồi trổ ra
cầu Vĩnh Bình, con sông gắn liền với bao kỷ niệm thời thơ
ấu của nhiều thế hệ người Lái Thiêu. Thật tức cười khi
những mái đầu bạc ngồi uống cà phê kho trong tiệm
nước Hưởng Ký, Vạn Lâm nhắc lại chuyện xưa, thuở ở truồng
leo lên lan can cầu Đúc quơ tay múa chưn rồi nhảy
tùm xuống sông, càng văng lên nhiều nước
càng tốt. Khi chán tắm lên bờ tìm quần
áo, dép guốc thì … không còn. Con
sông này một thời nổi tiếng lắm tôm nhiều cá,
nhiều ghe chài thả lưới ngay khúc sông chợ rồi
lên bờ cân cá tươi rói cho bạn hàng
tại chỗ khỏi đi đâu xa. Thuở nhỏ, cái nhà
sàn chợ cá bằng xi măng đúc là nơi
tôi thường xuyên thả cần câu khi con nước chớm lớn.
Ví thử nếu tôi nói là hồi xưa, con cá
lòng tong ở bến tắm ngựa hoặc chợ cá Lái
Thiêu dài cả gang tay thì nhiều người sẽ cho
là tôi nói xạo, hay cống chợ có trăn,
rái cá…thì lại càng không tin.
Cây dầu cổ thụ cạnh nhà làng Tân Thới
có thể minh oan cho tôi thì nay cũng không
còn.
Trước kia, khi chọn đất lập chợ,
người xưa thường chọn vùng bến bãi ven sông cho
thuận tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy, như
Lái Thiêu là hàng gốm sứ, lu hủ khạp xuất về
Lục Tỉnh và gạo thóc, cá mắm chở ngược lên.
Đến lúc cần phát triển thì con sông vô
tình lại trở thành vật cản trở khiến thị trấn khó
mở rộng. Nếu nói về quy mô thì chợ Lái
Thiêu bây giờ không lớn hơn các chợ vệ tinh
như Bình Hòa, Thuận Giao, Bình Chuẩn hay An
Phú là những chợ tân lập sau này rất nhộn
nhịp sung túc, do lượng công nhân từ các nơi
đổ dồn về tạo ra nhu cầu, nhiều ngành nghề ăn theo (nhà
trọ, hàng quán), dân địa phương cũng hưởng lợi
là giá đất tăng cao. Thời trước đất gò miệt An
Phú, Thuận Giao chỉ sống được nhờ sáu tháng
mùa mưa, đến kỳ nắng hạn cuốc đất tưng tay, giếng sâu thả
không nhìn thấy gàu, khoai mì muốn nhổ phải
tưới đẩm nước; bò gầy ốm giơ xương đếm đủ mấy cọng xương sườn,
phải lùa ra Bình Nhâm, An Sơn gặm cỏ. Lần hồi kinh
tế phát triển, mạng lưới giao thông mở rộng khiến
ngã tư An Phú giờ trở thành khu đất vàng,
nhà xưởng phố xá liền kề kéo dài
hàng chục cây số. Khi trước, đất Bình Nhâm
là đất thuộc loại thượng đẳng điền, một thước đất Bình
Nhâm đổi ba thước đất An Phú, giờ ngược lại.
Cuối những
năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ trước, thị trấn Lái
Thiêu với vài ngàn dân hãy còn
là một chợ quận êm đềm như những ngôi phố chợ
khác ở miền Nam: nhỏ nhắn, sạch sẽ, ngăn nắp. Hàng
hóa được chia ra từng khu vực: ở giữa là nhà lồng
dành cho bán vải vóc, giày dép, tạp
hóa, phía cuối là dãy sạp bán thịt
với những móc sắt và mấy tấm thớt bự lõm sâu
ở giữa, hai bên hông là hai dãy phố
bán đủ thứ mặt hàng, đa số do người Hoa làm chủ,
còn dọc dài theo con đường Châu Văn Tiếp ven
sông là khu bán cá, rau cải, hàng
bông. Mặt tiền chợ Lái Thiêu hướng lên
phía bắc, đối diện với nhà làng Tân Thới, ở
giữa là quảng trường rộng lớn một phần làm bến xe ngựa xe
lam; về sau có thêm mấy kiến trúc như nhà
đèn, phòng thông tin, chợ thiếc Tân Tây
Lan, nhà thương Đại Hàn - do bác sĩ quân y
Hàn Quốc khám bịnh phát thuốc miễn phí cho
dân chúng mà ế ẩm quá phải phát kem,
kẹo cho con nít bu lại; nhiều nhứt là nhổ răng, xức cồn ,
thuốc tím trị ghẻ chốc lở đầu và chân tay. Đầu chợ
có cái giếng nước công cộng, nước trong vắt
không hề bị nhiễm phèn, nhiều người sống nhờ cái
giếng này : nghề gánh nước mướn; trong khi bên kia
sông chỉ cách vài chục thước, dù giếng
đóng sâu bốn năm chục thước vẫn bị hôi phèn.
Một phần có lẽ do cấu tạo địa lý của vùng đất nơi
đây: bên kia sông chợ là vùng đất thấp
sình lầy, phù sa bồi tụ của sông Sài
Gòn qua hàng bao thế kỷ; còn từ bờ hữu cao dần
lên phía bắc là những gò đồi thoai thoải về
hướng truông Nhà Đỏ. Đất ở đây là đất đỏ nham
thạch chứ không phải đất phù sa cổ cát pha
sét như thường thấy ở Đông Nam Bộ. Biết đâu triệu
năm trước, biển tiếp giáp đất liền nơi đây chăng ?
Sông Chợ Lái Thiêu hồi
đầu thế kỷ 20
(Ảnh www.sugia.vn)
Bến
sông chợ, nơi ghe thuyền Lục Tỉnh chở gạo thóc cá
mắm lên
và chở lu hũ khạp về xuôi.
Xa xa là chùa Bà Thiên Hậu
của người Hoa.
Chợ
Lái Thiêu còn một khu vực buôn bán nữa
gọi là Chợ Mới, cách chợ cũ vài dãy phố về
hướng đông. Chợ Mới là chợ kiến thiết lại sau khi bị Việt
Minh đốt (chính sách vườn không nhà trống,
chống Pháp tái chiếm năm 1945) không có
nhà lồng nhưng có những dãy kiosque khang
trang hướng ra bốn phía. Chợ này chuyên bán
trái cây và đồ ăn đồ uống, có những
món ngon nổi tiếng như bánh ướt & bánh
tôm khô, cháo lòng & giò
chá quảy, bánh canh giò heo, bì bún,
bún chả giò, miến vịt, bánh canh ngọt, chí
mà phù (chè mè đen), nhứt là
tiệm phở Bắc lâu đời mà Hoàng Anh cho là một
trong những tiệm xưa nhứt Lái Thiêu, nay không biết
chủ nhân dời về đâu. Thuở nhỏ tôi có nhiều kỷ
niệm không vui với cái chợ này: má dặn mua
tương hột thì tôi mua tương ngọt, dặn mua tương ngọt
thì tôi mua tương … hột. Nếu ai có hỏi đi
làm ăn xa quê, nhớ Lái Thiêu nhứt là
về cái gì thì tôi sẵn sàng trả lời
ngay: tôi nhớ tô mì chỉ ba vắt của Chị Ui (Xem
bài “Người Hoa ở Lái Thiêu” của Lưu Thanh
Bình trên trang nhà THĐ) và nhớ ly đậu đỏ
bánh lọt của chú Chín đầu chợ. Sau này nhớ
thêm ly chè bà ba nổi tiếng. Quán chè
bài trí đơn sơ chỉ là những chiếc bàn thấp
lè tè và mớ ghế đẩu ngắn ngủn nhưng không
bao giờ vắng, khách ăn đa số là những tà áo
dài trắng đeo phù hiệu Phan Văn Hùm, Trịnh
Hoài Đức, ngồi e ấp với chiếc cặp xếp gọn trong lòng
và chiếc nón lá bên cạnh, thỉnh thoảng
có thêm mấy vạt áo nâu Nông Lâm
Súc duyên dáng. Lái Thiêu còn
hai món ăn độc đáo nữa là bánh đúc
chiên hột vịt và đậu phọng rang muối có vị mẳn mẳn
và thơm mùi tỏi khét (bớp bớp xôi ?) của
ông Tàu già với cái thùng thiếc đeo
trước ngực, không có chỗ bán cố định mà đi
bán dạo, khi có khách mua thì ông
múc từng chung nhỏ cho vào gói giấy xếp
hình cái phễu. Ngon đến nỗi muốn nhai luôn giấy.
Ông chết rồi là tuyệt nghệ, không có truyền
nhân. Lái Thiêu có nhiều món ngon, một
phần nhờ đa số cư dân người Tàu sinh sống ở chợ. Một nhận
xét chung là dân Lái Thiêu kén
ăn, nếu nấu dở đừng hòng bán được ở xứ này.
Có lẽ đây là ưu điểm mà cũng là nhược
điểm của dân Lái Thiêu nói riêng,
dân Nam Bộ nói chung. Chuyện xưa, trong một lần đàm
đạo cùng vua Minh Mạng, Tổng Trấn Gia Định Thành
là Nguyễn Văn Nhân có chê dân xứ ấy
(Gia Định) “ngày thường không biết tích trữ” (Đại
Nam Liệt Truyện). Món ngon truyền thống ở Lái Thiêu
ngoài nem Ngã Năm nổi tiếng còn có kẹo hột
điều, lò kẹo ở gần trường cô Tám Diệp - cô
giáo lớp đồng ấu của chị em tôi và nhiều bạn đồng
trang lứa, trong số có Huỳnh Hữu Thế, CHS khóa 13 -
và bánh tráng Đông Nhì. Hàng
năm gần Tết, má tôi lo đặt trước ba món này
để kịp đóng gói gởi về làm quà Tết cho
bà con thân tộc ở Sài Gòn.
2.
Mùa
mưa chấm dứt khi buổi sáng có gió hanh se lạnh
thổi về, lá khô rơi xào xạc trước sân, bầu
trời xanh cao hơn và ngày ngắn dần đi. Trung Thu
đã qua và mùa Noel sắp đến. Cũng là
lúc trẻ con được may sắm thêm quần áo mới,
vì chúng hay ăn chóng lớn, hay nói theo
giọng Lái Thiêu là “ nhổ giò” mau
quá. Tuổi trẻ vô tư, chỉ mong cho Tết mau tới, có
tấm áo mới mặc đem khoe chúng bạn, nào biết đến
nổi cực khổ lo toan mưu sinh của các đấng sinh thành,
đôi khi còn giận hờn áo xấu áo tốt. Giờ lớn
lên mới biết áo mới, dù vải ba tít hay vải
ú in bông nhúng nước lấm lem, nhưng là tấm
lòng cha mẹ thương con, áo ấy đọng lại biết bao mồ
hôi nước mắt trong lò lu, lò khạp miệt Đông
Tư, Đông Nhì hay gánh hàng bông Sở
Cải, Bạch Đằng. Ngày Tết, hãnh diện nhìn con
xúng xính trong bộ đồ mới, gọi lại vuốt phẳng phiu vạt
áo, dúi cho đồng bạc cắc 50 xu trước khi cho theo
chúng bạn ra rạp hát, ra đình hoặc theo
đoàn lân; tấm lòng người làm cha làm
mẹ lấy làm mãn nguyện lắm rồi.
Chợ Tết nhóm chánh vào các
ngày 28 hoặc 29 âm lịch, đó là chợ tết của
nhà giàu. Thịt cá, rau trái tươi ngon đầy
ắp. Còn chợ 30 là chợ của nhà nghèo,
công nhân lao động và dân nhập cư xa
quê. Giá giảm nhiều, có khi chỉ còn
phân nửa hay một phần ba giá hôm trước, người ta xả
hàng bán xổ bán lỗ để thu vốn về. Thê thảm
nhứt là chợ hoa. Mới buổi sáng Lan, Huệ, Hồng, Cúc
còn đua nhau khoe sắc khoe hương, vài tiếng sau nằm lăn
lóc hoặc vùi trong đống rác thải đủ loại. Chợ
Lái Thiêu xưa, ngày cuối năm chỉ bán một
buổi. Trưa 30, tiếng trống cù và tiếng pháo nổ
ì đùng làm bọn con nít nôn nao muốn
bỏ cơm; nhiều nhà đã sắp sẵn mâm cỗ, hương thơm
nhang khói lan tỏa ra ngoài đường càng khiến
khách bộ hành thêm rảo bước, người buôn
bán cũng thu dọn sạp hàng về cúng lễ rước
ông bà về ăn Tết với con cháu. Tục lệ này
cùng với lễ giỗ kỵ và tảo mộ ngày 25 tháng
chạp là ba lễ chánh của đạo thờ cúng ông
bà của đa số người Việt. Cuộc tranh cãi của giám
mục Bá Đa Lộc với chúa Nguyễn Ánh về ý
nghĩa của mâm cỗ ngày cuối năm cho ta thấy bề dày
truyền thống của tục lệ này : “ … ngày Cảnh không
lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp
Pigneau để phàn nàn sao Thiên Chúa
giáo dạy tín đồ quên ông bà… Pigneau
cãi rằng vì lối thờ cúng đó ngược với sự
thực nên không được đạo ông công nhận là
lẽ đương nhiên… Pigneau gọi lễ rước ông bà cuối năm
là dị đoan … Nguyễn Ánh cho rằng không thể bỏ được
vì sợ gây loạn. Ông nói: “Tôi đã
cấm phù thủy, thiên văn; tôi đã coi đạo Thần
tượng (đạo Phật- LTB) là xấu và sai, nhưng tôi phải
giữ đạo thờ ông bà như tôi đã trình
bày, vì theo tôi đó là một trong
những căn bản giáo dục của xứ tôi”. (Tạ Chí Đại
Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771-1802,NXB Tri Thức 2012, Tr.
268, 269).
Chiều 30,
sau khi xe rác hốt dọn xong có xe tẹc kéo
vòi phun nước rửa sạch lòng đường, chợ Lái
Thiêu vắng như cái … chợ chiều. Rước ông bà
xong rồi, mọi nhà lo chuẩn bị hoa trái cúng giao
thừa, thời khắc đất trời giao hội. Đa số mâm quả người miền Nam
đều là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài. Cầu vừa đủ
xài ! Có nơi thêm sung và thơm. Kỵ chuối
vì sợ sang năm chúi nhủi. Còn hoa thì hầu
hết là những đóa vạn thọ vàng rực và những
nhánh phát tài xanh biếc. Quả thật giây
phút giao thừa thiêng liêng ấy mà không
có tiếng pháo nổ nghe sao … vô duyên
quá, dù tôi thuộc phe ủng hộ cấm đốt pháo.
Thực ra bản thân viên pháo không có
tội, tai nạn là do ý thức con người gây ra
mà thôi. Mong một ngày dân trí cao,
nâng ý thức lên cao theo và tiếng pháo
lại trở về với ngày vui dân tộc. Nghe nói
ngày trước có tập tục không đòi nợ
ngày 30 để con nợ trở về nhà cúng ông
bà, tôi nghĩ đó là một mỹ tục, nhưng
bây giờ tục lệ này không còn nữa, mùng
1 cũng đòi sút quần không tha.
Ngày
xưa Lái Thiêu ít có tụ điểm vui chơi như
bây giờ. Sân rạp hát thường là nơi tụ tập của
bọn trẻ. Ở đó có bán mía ghim, đậu phọng,
nước đá bào xi rô, me cóc ổi ngâm
đường và mấy chiếc xe đẩy bán bánh kẹo ...
Ngày Tết có thêm mấy sòng Bầu Cua Cá
Cọp (nhưng không có cọp, mà có nai ?). Rạp
Tân Lạc bên chợ Mới chuyên chiếu phim Ấn Độ, anh
hùng cưỡi ngựa rượt đuổi kẻ cướp cứu mỹ nhân hoặc phim cao
bồi Zoro đeo mặt nạ đánh kiếm chẻng chẻng trên nóc
xe lửa. Rạp Phương Lạc bên chợ Cũ lớn hơn, ngoài chiếu
phim còn có hát cải lương, cũng là nơi
phát thưởng cuối năm của trường tiểu học Tân Thới
và biểu diễn văn nghệ học đường. Bây giờ rạp Tân Lạc
biến thành nhà thờ công giáo, còn rạp
Phương Lạc là nhà sách Fahasa kiêm
siêu thị mini. Hồ bơi, sân banh và rạp hát
là ba công trình phúc lợi công cộng
đã biến mất ở Lái Thiêu ngày nay.
Ngày
đầu năm, nhà tôi thường tiếp đón một đoàn
khách rất đặc biệt: những người bạn của ba tôi. Họ tập
trung tại nhà người anh cả trong nhóm là ông
Năm Trầm, một thân hào nhân sĩ có tiếng tăm
nhờ nhân cách tốt và quảng giao chứ không
phải là người dư dả có của ăn của để. Bạn bè của
ba tôi gồm nhiều vị mà tôi vừa kính vừa sợ,
chỉ dám khoanh tay cúi đầu chớ không dám
nhìn, như ông Hai Kỳ (thân phụ của hai chị Lâm
Thúy Nga và Lâm Thúy Vân) , ông
Tám Mầy (cha kế của anh Lê Việt Dũng), ông Đức
Khánh (cha bạn Khánh Hòa), ông Năm Xướng
(cha bạn Nhiều), ông Sáu Sơn, ông Ba Đực (cha chị
Lê Thị Bạch), ông Bảy Huê, ông Cả Kiết,
ông Tư Trai, ông Hai Tôn… và nhiều vị nữa
mà mình không nhớ hết. Người viết xin lỗi vì
đã mạo muội nhắc trực tiếp tên các bậc trưởng
thượng đáng kính nay đa số đã ra người thiên
cổ, chỉ vì muốn minh họa người thật việc thật cho bài
viết.
Phái
đoàn lần lượt đi chúc Tết từng nhà theo lộ
trình từ xa tới gần, mỗi nơi nhấp chút rượu, thưởng thức
chút hương vị món ăn ba ngày Tết, rồi tất cả
cùng đứng lên chúc Tết gia chủ trong không
khí đầm ấm và niềm hân hoan chung. Mỗi nhà
chỉ xẹt qua khoảng 15, 20 phút vậy mà khởi hành từ
xế chiều cho đến tối mịt mới xong. Nhà tôi nằm ở cuối lộ
trình, gần đến lượt thì ba tôi thường tách
đoàn về sớm để chuẩn bị đón tiếp. Má tôi
là tổng chỉ huy nên cũng là người cực nhứt, từ nấu
nướng tới sắp dọn nhưng khi thấy mọi việc đã tươm tất ổn định,
khách đã an vị là bà lại biến mất, chỉ khi
ba tôi gọi vói vào trong thì bà mới
ra, cùng đứng cạnh ba tôi để nghe lời chúc Tết của
quý thân hữu và đáp lời cảm tạ. Đúng
là tề gia nội trợ (Xin mấy chị B5 đừng giận, ý tôi
không phải nói giờ mấy chị chảnh đâu nha ! – LTB ).
Tôi còn nhớ lời của Bác Hai Kỳ, khen món
canh khổ qua của má tôi nấu ngon hết sẩy, làm năm
nào má tôi cũng chăm chút món
này. Ngẫm lại thật đáng ngưỡng mộ tục lệ ăn Tết của người
xưa: giản dị, đầm ấm mà thân mật; không ồn
ào, say sưa quá trớn, dễ sinh hiềm khích vì
lỡ lời, làm mất đi tình bạn thâm giao.
3.
Lái
Thiêu là xứ sở thuộc Hai Huyện. Năm 1698, Thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh vâng lịnh chúa Nguyễn vào nam kinh
lược, thiết lập nền hành chánh buổi đầu trên
vùng đất mới để xác định chủ quyền, Lái
Thiêu thuộc tổng Bình An, huyện Phước Long, dinh Trấn
Biên; đa số là lưu dân có gốc gác từ
miệt Ngũ Quảng, như làng Tuy An (sau gọi An Phú
Xã) là lấy theo tên gọi quê gốc ở miệt ngoải.
Người Lái Thiêu chính gốc nói Lái
Thiêu thành “Lái Khiêu”, thiệt tình
thành “khiệt tình”; con lân gọi con cù, đi
Sài Gòn gọi là “đi xuống” chứ không gọi “đi
lên”; gọi “sông Cái” chứ không gọi sông
Sài Gòn, gọi “Ba Thôn” chứ không gọi Thạnh
Lộc. Những năm chiến tranh, Lái Thiêu lại trở thành
nơi tạm cư cho dân nạn nhân chiến cuộc ở Nhị Bình,
Phú Hội, Tuy An hay xa hơn như Bến Súc về lánh nạn
(bài vị thành hoàng đình Phú Hội
phối thờ chung trong đình làng Tân Thới). Người mới
người cũ ở lẫn lộn đông đúc chen vui không hề
có nạn kỳ thị phân biệt. Trong chiến tranh mà kinh
tế - xã hội lại phát triển nhanh chóng; mười năm
65-75 là mười năm Lái Thiêu thay da đổi thịt, đường
rộng hơn, phố cao hơn, hàng hóa dồi dào hơn;
các công trình phúc lợi như nhà
thương, trường học mọc nhiều hơn; các phương tiện giao
thông cá nhân và công cộng cũng thay
đổi nhiều hơn.
Đất nước
sản sinh ra con người, đất ấy nước ấy sinh ra con người ấy … Lái
Thiêu không phải vùng đất địa linh nhân kiệt
nhưng là nơi đất lành chim đậu, đất cũ bao dung
đãi ngộ người mới; dân tình hiền hòa chơn
thật với tấm lòng tôn sư trọng đạo. Ngoài
phố, học sinh thấy thầy cô từ xa là đã lo chạy lại
khoanh tay cúi đầu; thanh niên chỉ mặc áo phạch
ngực không cài cúc là đã bị cho
là lưu manh cao bồi rồi, rất hiếm kẻ xâm mình;
hướng đạo sinh ngả nón khi có đám tang ngang qua,
trong rạp hát không có cảnh bật ngửa người
gác chân lên thành ghế trước, mọi người tự
động tắt thuốc đứng lên khi chào quốc kỳ; sân banh
ít có tiếng chửi thề; trẻ con vô lớp một đã
được dạy cách băng qua đường … Đất ấy đã từng lưu dấu
những danh nhân văn võ nổi tiếng một thời như Phan Văn
Hùm, Nguyễn Bình; sau này là Phú
Đức, Bình Nguyên Lộc … ; gần hơn nữa là Ngụy Văn
Thà, Lý Lan … Một minh chứng nữa cho sự chung sống
hòa hợp giữa các thành phần tầng lớp cư dân
Lái Thiêu là khu phố Bình Đức, nơi có
hai cộng đồng người Hoa làm nghề gốm sứ và người Việt
theo đạo Công Giáo sống chung đụng đan xen mà
không hề có xô xát, kỳ thị mặc dù
có khác biệt về phong tục tập quán, văn hóa
cũng như tôn giáo.
Nhà thờ Lái Thiêu,
một trong những ngôi giáo đường sớm nhứt miền Nam,
do cha sở Henry Azéma xây dựng năm 1894,
cũng là người đã thành lập Viện Câm Điếc
còn tồn tại đến ngày nay. (ảnh www.sugia.vn)
Lái Thiêu nay phát triển mở rộng về hướng
Đông, nơi có cuộc đất địa lý quá tốt, với
đủ tả Thanh Long (Đông Nhì) hữu Bạch Hổ (Gò
Cát), thêm Minh đường thoáng đãng là
cánh đồng Gò Chai rộng rãi tràn đầy
ánh sáng, phía trước có long mạch là
con suối chảy xuôi từ trái sang phải (không chảy
nghịch như sông Hương) đổ vào Minh đường rồi thoát
ra ở thủy khẩu tiêu thủy là cầu Ông Bố. Chỉ tiếc con
suối nay đã tắc mạch (giống như Piscine mạch Chà của
ông Lâm Lễ Trinh cũng đã bị san lấp để làm
bệnh viện), giờ nó chỉ còn chức năng tiêu
thoát nước thải cho khu công nghiệp gần đó chứ
không còn làm nhiệm vụ cung cấp nước cho cây
trồng nữa. Gò Chai là nơi quần ngựa đua của ông nội
tôi (thầy cai Tổng), nay là địa điểm xây dựng một
khu dân cư mới, còn miếu Thần Nông với cây đa
cổ thụ trên trăm tuổi thuộc ấp Đông Ba nay nằm lọt thỏm
giữa những khu phố dân sinh đông đúc, đa số
là công nhân ngụ cư từ miền Bắc vào.
Hoành tráng nhứt là Bệnh Viện Đa Khoa Quốc Tế Miền
Đông, tọa lạc ngay vị trí xưa là nghĩa địa
Gò Cát cạnh cầu Ông Bố và một phần của
trường trung học Phan Văn Hùm. Nhiều người cứ tiếc cái
sân banh Ấp Trưởng không còn, nhưng riêng
tôi lại mừng vì nay nó trở thành khuôn
viên rộng lớn của một trường tiểu học nội trú đẹp đẽ,
còn hơn để nó biến thành vũ trường,
sờ-nách-ba hay chịu cảnh hoang tàn như cái đồi hoa
sim của Piscine Bạch Đằng.
Sự phồn
vinh của Lái Thiêu do công nghiệp hóa đem lại
là điều không phải bàn cãi, vì một
nghề phát triển thường lôi kéo theo hàng
chục nghề ăn theo tạo ra công ăn việc làm cho hàng
ngàn người. Tuy nhiên, kinh tế Lái Thiêu đi
lên không phải tất cả bằng sự phát triển nội lực:
nhà xưởng mọc lên do vốn đầu tư nước ngoài bị hấp
dẫn bởi giá nhân công rẻ mạt, còn người lao
động đa số từ miền ngoài chuyển vào sinh sống với hy vọng
đổi đời, thoát khỏi cuộc sống bán mặt cho đất bán
lưng cho trời. Doanh nghiệp nước ngoài chủ lực , đem lại nguồn
thu thuế lớn cho địa phương là Đài Loan, Đại Hàn,
Hồng Kông, Trung Quốc … là những doanh nghiệp có
hàm lượng chất xám trong sản phẩm không cao; phần
lớn những mặt hàng gia công cho nước thứ ba như
giày da, đồ gỗ, hàng may mặc chỉ là hoàn
tất các công đoạn xử lý thô bằng lao động cơ
bắp con người, nhưng có ưu điểm là thu hút một
lượng lớn lao động phổ thông, điều mà các doanh
nghiệp phương Tây như hãng sữa Foremost - Hà Lan
không cần. Khủng hoảng kinh tế thế giới lan sang, các khu
công nghiệp bộc lộ ngay tính không bền vững của
nó: nhà máy đóng cửa tạm ngưng sản xuất,
công nhân thất nghiệp hàng loạt trong lúc Tết
Quý Tỵ đang lảng vảng trước mắt.
Người đi xa
trở về, nhìn con sông Chợ nước chảy êm đềm gợi nhớ
trò vui thả vịt phóng sinh ngày rằm tháng
bảy, nhớ bè chuối tống ôn lễ Kỳ Yên trên
có cái thủ vĩ lợn (chưa ra khỏi đầu vàm đã
bị lính quận kéo vô ních hết trong khi
đúng ra là của trẻ chăn trâu con cháu Thần
Nông), nhớ những đêm vui cộ Trung Thu, cộ Bà mặt
nước lung linh sắc màu nhờ con nước lớn ngày rằm.
Dãy phố lầu bờ sông nay không còn nữa, nơi
bar Mỹ Lan xưa giờ là công viên thoáng
mát rộng rãi, vỉa hè ven sông dành
cho người tập thể dục đi bộ sáng sớm và chiều tối. Thời
cuộc thay đổi, giờ nhắc Nhà Ga, Đầu Truông, Mạch
Chà, Bến Tắm Ngựa, Chợ Cá, Nhà Làng, tiệm
mì Chú Hớ … còn có mấy ai biết; hay như
Xóm Xe Bò giờ chẳng thấy có con bò
nào hoặc Vườn Nhãn không còn một gốc
nhãn làm thuốc. Người tại chỗ còn quên,
huống gì kẻ đi xa vạn dặm tìm về hình bóng
cũ với những hoài niệm êm đềm một thời đã qua. Con
chim Việt chọn đậu cành Nam vì nhớ nắng ấm, con ngựa Hồ
hí vang khi gió Bấc thổi về … Như có lúc đi
làm ăn xa tận miệt Tây Ninh, nhìn hình ảnh
chiếc Cầu Quan giữa lòng thị xã, tôi chạnh nhớ đến
cầu Ông Bố, cầu Bà Hai, cầu Cây Trâm với kiến
trúc y hệt; hay những năm đi làm gỗ ở Đường 10
(sóc Bom Bo), gặp dân Lái Thiêu là
sán lại hỏi thăm nhà cửa, người quen tới nơi tới chốn.
Mới hay quê hương nằm trong máu thịt, chỉ một chút
nhắc nhớ là kỷ niệm ùa về, nhất là với những người
lớn tuổi xa quê …
(12- 2012)