Chùa Bà Bình Dương
Hoàng Anh
 

Trên khắp đất nước ta có vô vàn những ngôi đền thờ Bà, cách gọi tôn kính các vị nữ Thần, dù là có gốc gác người Việt, Chăm, hay Hoa… Riêng ở Bình Dương, chùa Bà, là cách gọi nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, vị nữ thần của người Trung Hoa. Dù có sự nhầm lẫn khi gọi “miếu” hay “cung” là “chùa”, nhưng cách nói này đã thành thói quen trong dân chúng địa phương từ ngày xửa ngày xưa. Trong bài viết này, chúng tôi cũng gọi là “chùa Bà”, đơn giản theo như số đông mà không ngại người đọc ở Bình Dương có ai đó hiểu lầm. Có một đặc điểm đáng chú ý nữa là, ở những nơi thờ Bà có nguồn gốc từ các vị nữ thần của người Việt hay Chăm, dân chúng đều gọi là miễu hay miếu, mà không gọi là chùa, như trường hợp trên.
    Khắp thế giới có khoảng 5000 ngôi đền thờ Bà Thiên Hậu ở trên 20 quốc gia, nhiều nhất là vùng châu Á. Tại Việt Nam, từ Bắc tới Nam ở nơi nào hễ có người Hoa sinh sống thì cũng có nhiều đền miếu như vậy. Tập trung nhiều nhất là vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và Bình Dương.
    Điều đáng nói là dù những người viết sinh sống tại Bình Dương nhưng trong một số bài đăng báo hoặc các công trình chuyên khảo đồ sộ, số lượng đền thờ Bà mà các tác giả đưa ra lại không thống nhất với nhau như:
“Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Bình Dương được thờ trong bốn ngôi chùa ở Bưng Cầu, Lái Thiêu, Búng và ở Thủ Dầu Một là lớn nhất” (Địa Chí Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2010, tr.107)


Chùa Bà Bưng Cầu

    Trong một tài liệu khác:
    “Tại BD, ngoài ngôi chùa Bà tại TX. TDM nói trên, còn có không dưới 5 nơi thờ Bà như: 1/ Chùa Bưng Cầu, xây dựng năm 1887 ở cạnh đình Bưng Cầu, năm 1967 dời về ấp 3, xã Tương Bình Hiệp, 2/ Thiên Hậu Cung ở khu phố Thạnh Hòa, thị trấn An Thạnh, huyện Thuận An xây dựng năm 1879, 3/ Thiên Hậu Mẫu ở đường Châu Văn Tiếp, thị trấn Lái Thiêu, 4/ Thiên Hậu Miếu ở khu phố 3, Dầu Tiếng xây dựng năm 1937”. (Nguyễn Hiếu Học, Dấu Xưa Đất Thủ, 2009, tr.127-128)
    Trong 5 ngôi mà tác giả kể ra, chỉ có 4, liệt kê vẫn còn thiếu 1.
    Một quyển sách được biên soạn khá công phu khác, nhưng về số lượng chùa Bà, lại ghi rất bất nhất (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012):
    -Trang 180, ghi ở Bình Dương có 6 ngôi chùa thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu.
    -Trang 311, lại ghi có 7 ngôi, ở Thuận An có 2 ngôi (1 ở Lái Thiêu, 1 ở gần chợ Búng), có nêu ra thêm ngôi chùa mới lập ở Tân Phước Khánh.
    -Tại trang 490, ghi có 7 ngôi, liệt kê ở huyện Thuận An có 3 ngôi, (2 ở chợ Lái Thiêu và 1 ở gần chợ Búng, An Thạnh) như vậy là ở Lái Thiêu có thêm 1 ngôi nhưng bỏ sót không kể đến ngôi chùa ở Tân Phước Khánh, Tân Uyên. Như vậy nếu đầy đủ thì phải là 8 ngôi.
    Theo sự tìm hiểu riêng của chúng tôi, có thể liệt kê các ngôi chùa Bà ở BD như sau:
    -Tại thị xã TDM có 3 ngôi: một, nằm ở phường Chánh Nghĩa là ngôi xưa nhất; hai, nằm ở phường Phú Cường, đường Nguyễn Du; ba, nằm ở gần chợ Bưng Cầu, nay thuộc phường Hiệp An, nơi đây cũng có tổ chức lễ rước Cộ Bà vào buổi sáng ngày rằm tháng giêng.
    -Huyện Thuận An có 2 ngôi: một, ở chợ Búng, xã An Thạnh; hai, ở chợ Lái Thiêu, trên đường Châu Văn Tiếp. Tại Lái Thiêu còn một ngôi miếu thờ bà Thiên Hậu, được cho là ngôi miếu xây dựng đầu tiên ở vùng đất này, nay nằm trong đất tư nhân, thuộc khu phố Long Thới, người ngoài không vào nhang khói được, do đó chúng tôi không tính đến.
    -Huyện Dầu Tiếng có một ngôi, tổ chức lễ rước cộ vào ngày 11 tháng giêng.
    -Tại Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên, vào năm 2006, người Hoa Phước Kiến và Sùng Chính có xây dựng thêm một ngôi Thiên Hậu Cung bên cạnh chùa Ông.
    Như vậy, tính cho đến nay, trên toàn tỉnh có tổng cộng 7 ngôi miếu thờ Bà. Ngoài ra, một ngôi chùa nữa đã làm lễ động thổ vào ngày mùng 8 năm Tân Mão (2011) tại thành phố mới Bình Dương. Hiện đang trong tiến trình xây dựng và dự kiến hoàn thành vào đầu năm 2013. Chùa nằm trên một diện tích khoảng 4.000 mét vuông, dự trù kinh phí lên đến 30 tỉ đồng. Khi hoàn thành, với cả ngàn mét vuông xây dựng, đây có lẽ là ngôi chùa Bà rộng lớn nhất trong tỉnh.
    Đến đây, xin nói kỹ hơn về hai ngôi chùa Bà ở trung tâm thị xã. Đã có vài tác giả nói về chuyện này, và lại cũng vẫn có nhiều điểm sai biệt với nhau, cần viết lại cho rõ hơn.
    
1. Chùa Bà Chánh Nghĩa:
    “Miếu Thiên Hậu ở thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, được thành lập vào giữa thế kỷ XIX, nằm trên bờ rạch Hương Chủ Miếu. Năm 1880, người Hoa xin phép xây thêm nhà túc. Đầu thế kỷ XX (1923), miếu được di dời về vị trí hiện nay (nằm cạnh trường Phú Cường 2, đường Nguyễn Du). Dân gian vẫn quen gọi là chùa Bà Thủ Dầu Một.” (Nguyễn Thị Lan, Miếu Thiên Hậu (chùa Bà), Một tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương, tập san Khoa Học Lịch Sử Bình Dương số 4, 2005,  tr. 26 )
    Tài liệu khác:
    “Theo truyền thuyết, chùa Bà Bình Dương còn có tên gọi là dân gian là Miễu A Phó, được xây dựng từ thế kỷ XIX nay thuộc xã Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một. Đến năm 1923, chùa được xây dựng với quy mô lớn trên vị trí hiện nay (đường Nguyễn Du, trung tâm thị xã) (Địa Chí Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia 2010, tr.248)
    Một tác giả nữa:
    “Chùa Bà đầu tiên nằm ở vị trí bên bờ rạch Hương Chủ Hiếu. Có lẽ xây dựng vào giữa thế kỷ XIX. Năm 1880, những người Hoa có xin phép chính quyền huyện Bình An xây dựng thêm phần nhà túc, tức chùa hậu ở phía sau. Đến năm 1925, thì chùa được dời về vị trí hiện nay.” (Huỳnh Ngọc Đáng, Phú Cường, Lịch sử -Văn Hóa và truyền thống cách mạng, 1990, tr. 46)
    Một tài liệu khác cung cấp thông tin như sau:
    “Miếu Bà Thiên Hậu được người Hoa Phúc Kiến xây dựng vào năm 1867 bên bờ rạch Hương chủ Hiếu ở Phú Cường, gần chợ Thủ Dầu Một. Năm 1871, miếu được tôn tạo, cất thêm 3 gian nhà bếp ở bên phải. Đến năm 1880, chính quyền địa phương cho phép cất thêm dãy nhà bếp bên trái. Năm 1945, cơ sở này bị phá hủy trong chiến tranh, sau đó người Hoa di đời tượng Bà và đồ thờ tự về Thiên Hậu cung tại Phú Cường.” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 57)
    Phần chú thích cho biết thêm chi tiết chính xác hơn:
    “Trong một văn bản ghi ngày 10 tháng 03 năm Canh Thìn (1880), bang trưởng Triều Châu - Khách Gia là Văn Dịch cùng với các bang chức là Phương Phát, Quách Xương Nguyên, Tăng Phúc xin chính quyền thuộc địa Thủ Dầu Một làm thêm 3 gian bếp, ghi rõ “Trước đây chúng tôi đã lập một miếu thờ tại địa phận thôn Phú Cường, sau đó dân bang Triều Châu được làm thêm 3 gian nhà bếp phía bên phải miếu. Nay dân bang Khách Gia cũng được Bà bảo hộ muốn xin làm thêm ba gian bếp nữa ở phía bên trái”

Chùa BÀ Chánh Nghĩa

    Cũng trong sách này, ở một trang khác, lại viết:
    “Năm 1945 cơ sở này bị phá hủy trong chiến tranh, sau đó người Hoa di dời tượng bà và đồ thờ tự về Thiên Hậu Cung tại Phú Cường hiện nay. Đến năm 1996, Thiên Hậu Cung được xây dựng mới lại trên nền cơ sở xưa” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr.311)
    Về vị trí ngôi chùa, dọc con đường Nguyễn Tri Phương có rạch “Hương Chủ Hiếu” mà không có rạch “Hương Chủ Miếu” như tác giả Nguyễn Thị Lan nói.
    Theo các cụ già ở địa phương, rạch Hương Chủ Hiếu nằm trên cùng một con đường, gần phía chợ Thủ hơn, và cách cầu Thủ Ngữ độ trăm thước, nếu như vậy, chùa không nằm cạnh rạch Hương Chủ Hiếu như hầu hết tài liệu xưa nay đã ghi. Trong thực tế, ngôi chùa bà Chánh Nghĩa hiện nay nằm cạnh cầu Thủ Ngữ.
    Về khoảng thời gian xây dựng chùa, đối chiếu các đoạn vừa trích dẫn, tuy có ít nhiều sai khác, có thể thấy rằng vậy là ngôi chùa được xây trong khoảng những thập niên giữa của thế kỷ 19. Riêng con số có tính khẳng định chính xác là năm 1867 (Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 57), có đôi điều cần bàn thêm. Đáng lưu ý là, trong các đoạn trích dẫn trên, thì Huỳnh Ngọc Đáng đều có liên quan hoặc là tác giả hoặc đồng tác giả hay có nhiệm vụ chủ biên, thế nên sự sai khác về niên đại của các tài liệu này khiến chúng ta không khỏi hoài nghi về mốc 1867 đã nêu, thời gian mà các vị trong bang người Hoa hiện nay chúng tôi đã tiếp xúc thì không ai xác định được. Phần chúng tôi, do chưa tìm ra tài liệu nào khác để đối chiếu, nên vẫn xin ghi lại để độc giả cùng tham khảo thêm.
    Thời gian vì chùa bị hư hại phải dời đến cơ sở mới, những trích dẫn trên đưa ra các con số như 1923, 1925, và 1945, nay vẫn không có cơ sở để xác định con số nào là đúng nhất. Tuy vậy, nếu đối chiếu với thời gian trong một vài tài liệu và ký ức của nhiều vị bô lão tại địa phương về lúc ngôi chùa Bà Phú Cường có mặt ở Thủ Dầu Một, thì khoảng thời gian thập niên hai hay ba mươi của thế kỷ trước là hợp lý.
    Theo trí nhớ dân gian, thì ngôi miếu thờ Bà ở Chánh Nghiã lúc đầu tiên do các bô lão người Phước Kiến và Triều Châu cùng hợp sức dựng nên.
    Từ chợ Thủ đi vào, qua khu Lò Heo một đoạn, sẽ đến con rạch Hương Chủ Hiếu, đi tiếp sẽ tới cầu Thủ Ngữ, chùa nằm phía tay trái, trên một mũi đất có hai con rạch chảy hai bên. Qua khỏi cầu, là khu vực người Phước Kiến cư ngụ đông đúc và xây dựng rất nhiều lò chén, hình thành nên khu lò chén nổi tiếng của tỉnh. Miếu nằm ở bên cầu, từ đó có thể nhìn thấy dòng sông Sài Gòn chảy lững lờ ngang phía trước. Phong cảnh nơi đây rất đẹp, hiền hòa, thơ mộng, có thể nói là một vị trí đắc địa để xây cất những nơi thờ tự. Tiếc rằng vì thời trước đây là vùng nông thôn vắng vẻ, đường xá khó đi, lại mất an ninh vì chiến tranh nên một năm kia miếu bị đốt cháy, sụp đổ, chỉ còn lại phần nhỏ. Người ta cứ để phần ngôi miếu còn lại này nằm quạnh quẽ trải qua nhiều năm, những người tin tưởng thỉnh thoảng vẫn đến thắp nhang van vái, hàng ngày trẻ con thường kéo đến chơi đùa.
    Bên cạnh miếu, phía tay trái, có một vị tên là Nguyễn Văn Mơ, người gốc Tương Bình Hiệp, sinh năm 1930, về cất nhà ở đây từ 1962, nay tuy đã là một vị bô lão nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Ông kể lại rằng trước năm 1975, một đêm kia ông nằm mộng thấy có một bà già từ dưới con rạch bên phía tay trái của chùa đi lên gặp ông nói rằng ngôi miếu sắp sập. Hôm sau, ông thông báo với người gác miếu điều ấy để ngăn không cho trẻ con vào khu vực miếu chơi đùa như mọi khi sợ nguy hiểm. Quả nhiên, chỉ hai ba ngày sau,trong một buổi tối, ngôi miếu đã sập đổ.
    Người ta dọn dẹp hết tàn tích rồi dựng tạm một cái miếu nhỏ để tiếp tục thờ cúng. Mãi đến đầu năm 1998, các vị trong hai bang Phước Kiến và Triều Châu mới xây dựng lại ngôi miếu khang trang, đẹp đẽ như hôm nay. Lại có những người nhiệt tâm đã làm cuộc hành trình gian nan vất vả sang tận Trung Quốc thỉnh một bức tượng Bà từ bên ấy về đây để thờ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiếu Học thuật lại việc ấy như sau:
    “Đầu những năm 90 các vị chức sắc trong bang Phước Kiến đã trùng tu lại ngôi cũ và đề nghị xin thỉnh tượng Bà về lại chùa này, nhưng các bang trong hội đồng quản lý chùa hiện nay không tán thành. Thực hiện tâm nguyện của mình, vào năm 1998 đoàn đại diện bang Phước Kiến tại Bình Dương gồm các ông Trưởng Bang Trần Liễu, và các ông Dương Nam, Trần Quốc Lương … đã tìm cách về tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc, tìm đến tận ngôi chùa thờ Bà Thiên Hậu ở làng quê My Châu của Bà (nơi đã sinh ra Bà cách đây khoảng 900 năm) để chiêm bái và xin cung thỉnh một pho tượng Bà (cao chừng 60cm) tại đây đem về thờ tại chùa được xây dựng lần đầu tại Thủ Dầu Một”
(Nguyễn Hiếu Học, Dấu Xưa Đất Thủ, tr.133)
    Trong chùa, nếu từ ngoài nhìn vào, bàn thờ Bà đặt ở chính giữa, bàn thờ Ngũ Hành Nương Nương bên trái; phía bên phải là bàn thờ Ông. Bố trí thờ cũng có phần giống như ở chùa Bà phường Phú Cường. Vào ngày vía Bà 23 tháng 3 âm lịch hàng năm, tại đây đều có lễ cúng với sự tham dự của đông đảo người dân địa phương.

2. Chùa Bà Phú Cường:
Ngôi chùa này nằm trên đường Nguyễn Du, phường Phú Cường, nơi tổ chức lễ Cộ Bà hàng năm lớn nhất trong tỉnh, và có lẽ lớn nhất Việt Nam nữa. Đây là ngôi chùa nổi tiếng nhất, thu hút lượng người hành hương, chiêm bái hàng năm đông đảo nhất.
    Về thời điểm thành lập chùa, các tác giả đưa ra nhiều niên đại khác nhau:
    1. Đầu thế kỷ XX (1923), miếu được di dời về vị trí hiện nay (Nguyễn Thị Lan)
    2. Đến năm 1925, thì chùa được dời về vị trí hiện nay.” (Huỳnh Ngọc Đáng, Phú Cường, Lịch sử -Văn Hóa và truyền thống cách mạng, 1990, tr. 46)
    3. Đến năm 1923, chùa được xây dựng với quy mô lớn trên vị trí hiện nay (đường Nguyễn Du, trung tâm thị xã) (Địa Chí Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia 2010, tr.248)
    4. “Chưa có cứ liệu xác định năm thành lập, nhưng theo một số người lớn tuổi cho biết khoảng năm 1934-1935 cơ sở thờ Bà đã có. Vậy, có thể Thiên Hậu cung ở Phú Cường được lập khoảng từ sau năm 1920, khi ở khu vực chợ Thủ Dầu Một đã thành lập bốn bang người Hoa riêng theo từng nhóm phương ngữ” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 311)
    5. “Năm 1945 cơ sở này bị phá hủy trong chiến tranh, sau đó người Hoa di dời tượng bà và đồ thờ tự về Thiên Hậu cung tại Phú Cường hiện nay. (Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 311).
    Các con số chỉ thời gian tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều nằm ở khoảng thập niên hai mươi hay ba mươi của thế kỷ trước. Qua tìm hiểu thêm các cụ già lứa tuổi trên tám mươi đến nay hãy còn minh mẫn, chúng tôi nhận thấy rằng thời gian đó là tương đối hợp lý.
  

Chùa BÀ Phú Cường
 Về việc thờ tự trong ngôi chùa này, có tài liệu viết:
    “Thiên Hậu Thánh Mẫu tại Bình Dương thường được thờ cùng với Chúa Xứ Thánh Mẫu, Chúa Tiên Nương Nương và được dân làng tổ chức cúng vào ngày 22-3 hàng năm” (Địa Chí Bình Dương, 2010, tr.73)
    Khác với tài liệu ghi trong Địa Chí, người ta cúng vía bà vào ngày 23 tháng 03, và trong chùa, Bà được thờ chung với Ngũ Hành Nương Nương chứ không phải thờ với Chúa Xứ Thánh Mẫu và Chúa Tiên Nương Nương là hai vị nữ Thần của người Chăm và người Việt. Nơi khác, trong cùng quyển sách này lại viết, đúng với thực tế hơn:
    “Ngoài pho tượng chính Thiên Hậu Thánh Mẫu thờ ở chính điện được chạm khắc công phu tạo nên nét đẹp trang nhã, dung dị nhưng thiêng liêng siêu phàm theo phong cách hiện thực, chùa còn có các tượng thờ kích thước nhỏ hơn như tượng ông hổ, tượng Ngũ Hành Nương Nương, tượng Bổn Đầu Công.” (Địa Chí Bình Dương, 2010, tr.248)
    Theo lời kể dân gian, thời xưa, sau khi ngôi miếu ở phường Chánh Nghĩa bị hư hại, một số vị trong hai bang Quảng Đông và Sùng Chính đứng ra lo việc xây dựng lại một ngôi chùa mới. Các đại gia người Hoa ở Chợ Lớn lên chung tay góp sức phụ việc xây dựng. Họ rước cả thầy phong thủy từ bên Tàu qua để chọn cuộc đất tốt nhất để làm nơi cất chùa. Lúc đầu họ chọn khu đất nằm trên đồi cao bên dốc ông Cò, gần Tòa Bố nhưng không được chính quyền chấp thuận. Theo họ, đây là cuộc đất “Giao Long đắc địa”, Tòa Bố là đầu rồng, con đường Yersin là thân rồng nằm uốn lượn, khu đất nhà thờ là chân bên phải của rồng, do vậy họ chọn vị trí tốt còn lại là chân bên trái của rồng tức vị trí hiện nay. Mặt trước của chùa hướng về phía sông Sài Gòn. Có người giải thích rằng hầu hết các ngôi chùa Bà đều được xây dựng hướng về phía sông nước vì Bà nguyên là vị nữ thần phù hộ cho những người đi biển.
Trước khi làm một việc quan trọng, hoặc đi xa, nhất là đi trên biển, người Hoa ở địa phương thường phải vào chùa xin keo, nếu được keo tốt thì họ mới đi, bằng không thì ở lại. Mỗi năm, các bang người Hoa họp lại để chọn một bang lo việc coi sóc chùa. Sau rằm thì bang mới chính thức nhận bàn giao công việc từ bang cũ, từ đó trong năm có trách nhiệm phải lo toan mọi việc trong chùa như cúng vía Bà, tổ chức rước Bà du xuân...
    Hồi trước, trừ dịp rằm tháng giêng, còn lại quanh năm chùa vắng vẻ. Bọn trẻ con, nhất là lũ trẻ học trường tiểu học Nam Châu Thành ở sát vách, coi sân chùa như là sân chơi của chúng. Khi rảnh, chúng kéo tới nô đùa, đá banh, cười giỡn huyên náo mà chẳng ai la rầy. Ngày nay đã khác nhiều, suốt năm đều có người đi lễ, chùa trở thành chốn cho nhiều người đến buôn bán, sân chùa và ngoài cổng có nhiều sạp hàng bán nhang đèn, vé số, chim chóc cho ai muốn phóng sanh. Con đường nhỏ chạy ngang trước chùa với hai hàng cây cao tỏa bóng mát ríu rít tiếng chim và mấy đứa học trò nhỏ qua lại giờ cũng không còn. Cái hình ảnh tôn nghiêm và thơ mộng của chùa ngỡ mới còn như hôm qua mà giờ đã quá đỗi xa xăm./.