Năm Đệ Thất
Từ Minh Tâm
Lời nói đầu:
Nhớ lại hồi nhỏ, mỗi năm tới Tết Âm Lịch thì trường Trịnh
Hoài Đức hay thực hiện báo xuân của học sinh.
Truyền thống đó không biết ngày nay còn giữ
hay không?. Riêng cựu học sinh Trịnh Hoài Đức
chúng ta tuy già nhưng vẫn còn ... sung. Năm
nào anh chị em chúng ta cũng rủ nhau viết bài về
những kỷ niệm thời học trò nhiều thơ mộng. Tôi xin
góp một bài hồi ức về năm tôi mới vào học ở
Trịnh Hoài Đức. Nhớ gì viết nầy, mong bạn đọc thông
cảm, có gì sai xin góp ý ...
*****
Tuổi trẻ ham chơi, sau khi tham dự cuộc thi tuyển vào lớp Đệ
Thất trường Trịnh Hoài Đức xong thì tôi cứ
tà tà ở nhà vui chơi mà không đi coi
kết quả. Lúc nầy đang vào mùa hè, ve đang
kêu rang ở ngoài vườn. Một hôm đang lấy mủ
mít quấn vào đầu một cây sào tính sẽ
chích vào cánh, bắt mấy con ve sầu để chơi
thì thầy Vân và hai bạn Sơn và Hà tới
nhà cho hay tôi đã đậu vào trung học lớn
nhứt tỉnh Bình Dương. Thầy Vân là thầy dạy
tôi năm lớp Nhứt ở trường Nam Châu Thành. Sơn
và Hà là hai anh em ruột mà lại cùng
học chung lớp nhứt với tôi. Tôi mừng thì ít
mà ba tôi thì mừng nhiều bởi vì nhà
tôi rất đông anh em. Lo cho các con ăn học rất tốn
kém. Nay tôi đậu vào trường công khỏi
đóng học phí thì ông cũng nhẹ lo phần
nào. Ông tỏ lời cám ơn thầy Vân và mấy
ngày sau nói tôi dẫn ông vào nơi thầy
Vân ở trọ trong xóm Bưng Cải để tặng thầy một món
quà kỷ niệm.
Đầu tháng 9 năm 1965, tôi cùng với các bạn
học hồi lớp Nhứt là Trần Công Hảo, Lê quang QPhước
cũng như Từ Minh Thạnh là em chú bác cùng
vào nhập học lớp Đệ Thất. Chúng tôi được tự do chọn
sinh ngữ. Lúc đầu thấy anh chị trong nhà đều học
Pháp Văn nên tôi tính chọn Pháp Văn,
nhưng chị Tư tôi khuyên rằng tôi nên học Anh
Văn vì lúc nầy ảnh hưởng cuả người Mỹ đã rất mạnh
trên khắp thế giới. Còn ở Việt Nam người Mỹ đã
vào khá nhiều. Học Anh Văn sau nầy dễ có cơ hội
thăng tiến hơn. Quả là một lời khuyên rất chí
lý và giúp cho tôi khỏi phải lãng
phí thì giờ sau nầy.
Năm nầy có hơn 150 học sinh được tuyển vào đệ thất trường
Trịnh Hoài Đức. 100 nữ sinh chia làm hai lớp Đệ Thất P1
(Pháp Văn), Đệ Thất A2 (Anh Văn). Hai lớp nầy học bên
trường Nữ. 150 nam sinh chia làm ba lớp Đệ Thất P3 (Pháp
Văn), Đệ Thất P4 (Pháp Văn), Đệ Thất A5 (Anh Văn). Ba lớp nầy
học bên trường Nam. Lớp học là dãy ba lớp trệt ở
sát hàng rào gần Trường Nông Lâm
Súc.
Thạnh được xếp vào lớp Đệ Thất P4 (Pháp Văn). Hảo, Phước
và tôi được xếp vào lớp Đệ Thất A5. Ở đây
tôi gặp rất nhiều bạn mới nhưng tôi thân nhứt
là hai bạn Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn văn Đức. Tôi
không thích (thậm chí sợ hai bạn Nghĩa và
Quý). Hai bạn nầy là anh em ruột, cao lớn và hơi
... quậy. Ban Đại Diện lớp là: Trần Văn Lực được bầu làm
Trưởng Lớp, Nguyễn Đình Dũng làm Thư Ký, Trưởng
Ban Thể Thao là Dương Quang Phước, Trưởng Ban Văn Nghệ: Từ Minh
Tâm
Đồng phục khi đi học Trịnh Hoài Đức là quần xanh
áo trắng cho nam sinh và quần trắng áo dài
trắng cho nữ sinh. Học sinh phải có phù hiệu trên
ngực trái, nếu không thì không được
vào trường. Thường chúng tôi đi xe đò Đồng
Hiệp từ Bình Dương xuống Búng. Lớp học bắt đầu lúc
1 giờ trưa thì khoảng 11 giờ rưởi đã phải có mặt ở
bến xe trước Phòng Thông Tin chợ Bình Dương để khi
xe đò tới chuyến thì lên. Khoảng 1965, bến xe
đò Bình Dương - Sài Gòn nằm ở đó,
sau nầy dời về trước trường Bồ Đề. Học sinh Trịnh Hoài Đức chỉ
được ngồi ở phía sau. Mỗi xe chừng 15-20 em mà
thôi. Phần phía trước xe để dành cho người lớn đi
xa tới Lái Thiêu hay Sài Gòn. Vào
buổi chiều, khi tan học lúc 5 giờ thì chúng
tôi phải đi bộ chừng 1 cây số xuống Búng để
đón xe đò trở ngược về Bình Dương vì xe hay
ngừng ở Búng mà không ngừng ở trường Trịnh
Hoài Đức vì đã hết chỗ. Bạn nào có
tiền thì đi xe lam. Vài bạn khá giả như Tuyết
Đông thì có xe nhà đưa đón. Điều nầy
làm cho mấy bạn trai nào cũng hơi ... ngưỡng mộ.
Hồi học lớp Nhứt tôi học giỏi nhứt lớp. Lúc vô Đệ
Thất thấy bạn bè cùng lớp lại siêng năng lắm.
Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Văn Đức là hai người thông minh
và chăm chỉ nên lúc nào cũng có điểm
lớn hơn tôi. Tôi cũng tức lắm và cố gắng học
thêm. Ganh đua là bản tính của tôi đó
mà. Nhưng do sức khỏe không tốt và môi trường
học cũng mới. Mạnh ai nấy học một cách tự giác chớ
không bị thầy quở mắng như hồi tiểu học nên có khi
tôi cũng lơ là đôi chút. Thêm
vào đó lại ham vui, lại tham gia văn nghệ văn gừng với
thầy Bé Tám nên cuối năm kết quả thua hai bạn
trên, chỉ đứng hạng ba trên số 53 học sinh.
Về bạn bè trong lớp, năm nầy mới quen nhau nên không
nhớ nhiều về tánh tình của họ lúc đó. Chỉ
nhớ nhiều nhứt là Hiệp và Đức là hai bạn hiền
lành và siêng năng. Hai anh nầy đều đã
mãn phần rất sớm. Nguyễn Hữu Hiệp mất khoảng năm 1980 vì
bịnh gan. Nguyễn Văn Đức mất khoảng năm 1995 trong một hoàn cảnh
rất đáng thương. Ngoài ra, có hai bạn có
năng khiếu về vẽ là Huỳnh Thanh Hùng (ở Lái
Thiêu) và Lê Thanh Sơn (ở Búng). Hai anh nầy
rất có hoa tay nhứt là Hùng.
Về thầy cô, nhờ có học bạ do ba tôi cất giữ cẩn thận
mà có đủ danh sách nên xin ghi lại nơi
đây:
Danh sách giáo sư dạy lớp Đệ Thất A5 niên
khóa 1965-1966:
Cô Tiêu Thị Tú (Quốc Văn): Cô là một
cô giáo rất hiền, rất đẹp và dạy cũng rất hay
nên tôi học môn nầy cũng siêng. Chương
trình quốc văn đệ thất ngoài Nhị Thập Tứ Hiếu hơi
không đúng sự thật thì có những bài
ca dao rất hay như:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen ...
hoặc
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay...
Thầy Nguyễn Văn Phúc (Công Dân Giáo Dục): Năm
nầy chắc thầy mới về dạy ở Trịnh Hoài Đức. Tôi không
nhớ rõ, và không có ấn tượng gì về
thầy trong thời gian nầy. Chỉ nhớ là thầy nghiêm nghị
và dạy đúng giờ, đúng bài như một
công chức gương mẫu. Riêng bạn Nguyễn Đình Dũng
thì nhớ thầy ở chỗ thầy hút thuốc lá (hiệu Bastos)
liên miên, hết điếu nọ thì châm điếu kia. Dũng
nhắc lại là anh ta lấy viết gạch xuống bàn mỗi khi thầy
hút một điếu thuốc để coi trong một buổi dạy thì thầy
hút bao nhiêu điếu.
Thầy Huỳnh Ngọc Anh (Anh Văn – sinh ngữ 1): Thầy là người Trung,
hình như Quảng Nam, Quảng Ngãi. Thầy dạy học rất
siêng năng nhưng do thầy nói tiếng Trung nên
chúng tôi cũng không nghe rõ lắm và
cũng không thích thầy lắm. Bạn Dũng nhớ rằng khi thầy Anh
kêu chúng tôi đọc bài mà anh ta lại
nghe là “đạp” bài nên cứ cười thầm hoài. Năm
đệ thất chúng tôi học theo cuốn Let’s Learn English. Cuốn
này có phần dạy phát âm rất hay, nhưng cũng
rất khó. Thí dụ như cách phát âm chữ
“th” trong các từ this, that .... Qua năm sau do ảnh hưởng của
Mỹ chương trình Anh Văn trung học đổi qua học cuốn English for
Today.
Nguyễn Thị Lệ (Sử Địa): Hoàn toàn không nhớ
gì về cô.
Đoàn Văn Vượng (Toán): Thầy người mập mạp, dạy
Toán dễ hiểu. Trong phần đại số, chúng tôi bắt đầu
biết số âm và giải phương trình có một ẩn số
x.
Nguyễn Đức Giang (Lý Hóa): Thầy hơi ốm, và chịu
khó giảng bài nhiều lần cho học sinh hiểu. Gần cuối năm,
tới giờ của thầy là tôi lại đi tập văn nghệ cho chương
trình lễ phát thưởng với thầy Bé Tám
nên cũng ít nhớ về thầy. Về môn Lý
Hoá, học lớp đệ thất thì biết cách ký hiệu
Hoá Học và biết rằng nước được cấu tạo từ hai chất
khí là Hydrô và Oxy. Trường có
Phòng Thí Nghiệm nhưng trong bảy năm học chúng
tôi không bao giờ được xem một thí nghiệm nào
dù rất đơn giản như phân tích nước hay biết được
những hoá chất thông thường như acid, base hay thí
nghiệm về vạn vật.
Đoàn Văn Vượng (Vạn Vật): Không ngờ thầy có dạy
môn Vạn Vật nữa.
Lê Văn Bình (Vẽ): Thầy là người ốm yếu. Mỗi tuần
chỉ học vẽ có 1 giờ nên cũng không dạy được nhiều.
Đa số là vẽ tự do, vẽ trang trí, kẻ chữ ... Tức cười
là hồi trung và đại học, tôi học Toán rất
giỏi. Hiện giờ làm kỹ sư tưởng rằng phải dùng toán
rất nhiều. Té ra không phải như vậy mà tôi
lại làm về nghề vẽ (bằng máy vi tính) và vẽ
họa đồ công chánh chớ không phải vẽ nghệ thuật. Tuy
nhiên kiến thức về môn vẽ và thủ công cũng
giúp cho tôi rất nhiều trong công việc.
Nguyễn Bé Tám (Nhạc): Thầy rất khó tánh,
hay la rầy học trò. Cách cho điểm của thầy cũng lạ: thuộc
bài 20, không thuộc: “ăn hột vịt”, chớ ít khi thầy
cho điểm ở khoảng giữa như 15, 16. Thầy chỉ dạy đúng giờ
vào đầu năm. Tới cuối năm thì thầy lo tập văn nghệ để
hát trong lễ phát thưởng nên lúc đó
học trò được nghỉ, thành ra, cả năm học nhạc thì
bài vở chỉ có chừng bốn, năm trang nhạc lý
mà thôi. Tôi còn nhớ bài hát
đầu tiên thầy dạy cho tụi tôi là bài Xuất
Quân của Phạm Duy (mà đám con nít quỷ sửa
lại là bài Xúc ... Quần).
Hiệu trưởng của trường vào niên khoá nầy là
thầy Nguyễn Trí Lục, giám học là thầy Phạm Ngọc
Em, giám thị là thầy Công, bác Phu ...
Trong sổ học bạ không thấy có môn thể dục.
Hình như trong chương trình dạy thì có
môn nầy học mỗi tuần một giờ nhưng kiếm không ra huấn luyện
viên.
Cuối năm Đệ Thất, do thầy Bé Tám kêu gọi và
bản tánh ham vui. Tôi tham gia chương trình
văn nghệ của Lễ Phát Thưởng với màn hợp xướng mở đầu
là bài Hè Về và màn kết thúc
là bài Thiên Thai. Mỗi tuần chúng tôi
tập khoảng 2 giờ vào chiều thứ năm cho tới ngày nghỉ
hè. Ban hợp xướng có khoảng 30-40 học sinh chia
làm bốn nhóm: thiếu niên, thanh niên, thiếu
nữ thanh nữ. Mỗi nhóm hát khác nhau nhưng
hoà hợp với nhau thì rất hay. Thầy Tám tập văn
nghệ khó lắm và hay la rầy học sinh vì muốn chương
trình phải thật hoàn hảo. Mấy bạn cùng lớp
bên trường Nữ như Ngọc Sương, Ngọc Tuyết, Xuân Mai,
Xuân Đào, Phùng và Tuyết Đông ... cũng
tham gia bài vũ Trấn Thủ Lưu Đồn do thầy hiệu trưởng là
Nguyễn Trí Lục đề xướng. Về ban nhạc tôi không nhớ
tên mấy anh khác mà chỉ nhớ có anh Trương
công Bình đàn mandoline. Chương trình văn
nghệ năm nầy rất xôm tụ với những màn ca múa, kịch,
hoà tấu, hợp xướng ... Bạn Hồ Thị Kim Ngân còn giữ
được tờ chương trình lễ phát thưởng đính
kèm (trong phần Hình ảnh). Trong chương trình
có vở kịch mang tên Khơi Lòng, nói
lái là Không Lời và bản song ca Tình
Lính do hai cô nữ sinh trình diễn trong đó
có một cô mặc áo lính giả trai. Về đơn ca
có anh Hải hát rất hay, không bao giờ bị thầy
Tám rầy. Anh hát bài Biết Đâu Tìm rất
vững nhịp và đi vào lòng người. Ngày nay
khi viết bài nầy tôi vẫn cảm giác nghe lại đoạn mở
đầu của bài hát thật hay do anh trình diễn:
Năm năm mỗi lần nghe hè đến
Lòng đắm đuối những giờ phút hè xưa
Hồn lâng lâng như buồn nhớ bâng khuâng
Và thương tiếc vô cùng ...
Về vũ ngoài bài Trấn Thủ Lưu Đồn của nhóm lớp đệ
thất, còn có vũ khúc Nhịp Sống Vui với (bản nhạc
Quãng Đường Mai) và Trao Duyên (với bản Tình
Bắc Duyên Nam) do những chị học lớp đệ ngũ trình
bày.
Trong dịp nầy tôi biết thêm vài chị rất đẹp ở
các lớp trên như chị Kim Nên, Xuân Diệu, Minh
Lan ...
Lễ phát thưởng năm nầy được thực hiện ở Tòa Hành
Chánh Tỉnh Bình Dương và có ông Tỉnh
Trưởng tới tham dự. Tôi lãnh phần thưởng hạng ba,
bên trong có một cuốn kỷ yếu in rõ danh sách
ban lãnh đạo, các giáo sư, bạn đại diện học sinh
và tên của từng học sinh được lãnh thưởng từ đệ
nhứt tới đệ thất. Không biết có bạn nào giữ được
tài liệu nầy sau 45 năm biến đổi?. Do tập luyện công phu
nên chương trình văn nghệ đã hoàn
thành rất tốt đẹp, không sai sót. Sau đó mấy
ngày, Ban Văn Nghệ có họp nhau ở Phòng Thí
Nghiệm để liên hoan vui vẻ. Dịp nầy mỗi thành viên
được thầy Tám tặng một bản nhạc là Nỗi Buồn Hoa Phượng.
Chúng tôi dùng bản nhạc nầy để “xin chữ ký”
của các bạn cùng tham gia văn nghệ, không biết
có ai còn giữ được hay không sau mấy mươi năm biến
đổi.
Sau lễ phát thưởng, chúng tôi về nghỉ hè,
nhưng ngoài chuyện vui chơi như đá banh, câu
cá, bắn chim ... tôi và các bạn khác
như Thạnh, Phước, Ngô Quý Nam ... đi học thêm
Toán với thầy Nguyễn Kim Long ở nhà của thầy (gần tiệm hủ
tiếu Cây Me – đối diện nhà bà Bảy Lìn).
Lúc nầy tôi học chung với nhiều bạn khác lớp từ
Trịnh Hoài Đức, An Mỹ ... nhưng tôi chỉ nhớ bên nữ
lúc đó có bạn Nguyễn Thúy Việt là
đẹp nổi tiếng và có nhiều bạn trai để ý. Học
thêm Toán với thầy Long vui lắm. Thầy dạy hay và dễ
hiểu nên sau nầy khi lên Đệ Lục tôi không cần
học gì nhiều mà cũng giải được những bài
toán Đại Số, Hình Học rất nhanh, hơn hẳn Hiệp và
Đức.
Bài đã dài, xin tạm chấm dứt ở đây hẹn với
các bạn sang năm sẽ kể tiếp chuyện học năm Đệ Lục nếu bạn
không thấy chán ...