Một Thuở
Thanh Bình
Kim Nên
Từ Bình Dương đi về hướng bắc, theo một tỉnh
lộ đất đỏ thì đến Bến Súc rồi lên Dầu Tiếng.
Ngoài ra, cũng có thể đi lên Bến Cát rồi
vòng qua Bến Súc thì cũng tới nhưng đường sẽ xa
hơn. Bến Súc còn có tên rất đẹp là
Thanh Tuyền. Nó nhớ thật rõ ràng mặc dù
lúc ấy nó mới khoảng 8, 9 tuổi. Đây là
vùng đất mới, từ Dầu Tiếng chạy xuống Bến Súc trước khi
tới chợ, bên phải là trường học nơi nó học hết lớp
nhì thì gia đình nó dọn về quê nội
dưới Bình Dương. Đó là ngôi trường đầy kỷ
niệm ấu thơ. Nhớ lại, một buổi trưa nọ cả dám học trò rủ
nhau vào vườn hái trộm hột điều, trái điều ăn vị
chát tụi nhỏ không thích, nên rủ nhau vặn lấy
hột để đem về nướng hoặc nấu chè. Mải mê phá
phách nên đám nhóc quên cả giờ học.
Trở về đến trường thì thấy ông hiệu trưởng tên
Trên cầm roi đứng chờ. Ông bắt cả đám nằm xuống đất
lấy roi quất cho một trận. Một đứa sợ đòn quá lấy
giấy báo bỏ vào quần che cái đít để khi bị
roi quất thì đỡ đau. Khi ông hiệu trưởng quất roi
vào đít nó nghe bình bịch, làm cả
đám học trò nhỏ vừa khóc vừa cười. Học ở trường
đó năm nào anh em nó đều được lãnh thưởng.
Nhà thương ở cạnh trường. Bên kia đường
là sân vận động nơi các anh nó thường vui
chơi đá banh. Chạy qua vài căn nhà là
lò đường. Nhà nó ở không xa có miếng
đất nhỏ ba má nó trồng mía lao. Đến mùa
mía già, cả nhà cùng chặt, bó đem
lên lò đường cho thợ xay ép và nấu
làm đường thẻ. Nó thích nhất là những buổi
trưa hè ở quê. Không có gì ăn vặt, chị
nó mua bánh đa nướng đem lên lò đường, nhờ
chú thợ nhúng bánh đa vào chảo đường đang
sôi nhảy bọt. Thế là chị em nó có một
món kẹo bánh đa giòn tan ngon thật là ngon.
Bên kia lò đường là một bãi xác
mía cao như đồi núi, nơi đó bọn trẻ nhà
quê của nó thường leo lên chạy nhảy nô
đùa trong những đêm sáng trăng.
Qua dốc Năm Vồ có một cây đa to lớn
trước căn nhà âm u, vắng lặng. Tụi trẻ trong làng
đồn nhau là nhà đó có ma. Chạy xe về hướng
chợ là những căn nhà với hàng cây trứng
cá chạy dài hai bên đường là công lao
của ba nó trồng cho đẹp đường phố. Đám trẻ trong
làng thích trèo lên cây hái mấy
trái chín ăn rất thơm ngọt. Đến ngã ba là
chợ Bến Súc, trước chợ có xây một bia đá
có cẩn một miếng phản chiếu (luminer) màu vàng để
chiếu sáng khi ánh đèn xe chiếu vào
lúc ban đêm. Cái bia đá đó là
nơi vui chơi của nó và đám trẻ, nhất là
những ngày cùng nhau tắm mưa, rượt nhau chạy chung quanh
bia đá và đưa con mắt thật gần miếng luminer màu
vàng để xem bên trong có những vết
sáng màu vàng xen lẫn, di chuyển theo con mắt
ngây thơ quê mùa của đám con nít. Tại
ngã ba đường, quẹo trái là đường đi Bến
Cát, quẹo mặt đi về phía sông Bến Súc,
bên kia sông là Phú Mỹ Hưng.
Con sông này đã ghi lại
hình ảnh thân yêu của người cha khuất bóng
thường đưa con gái út sang sông chữa bịnh. Con
đò cập bến, nó được ba nó chở trên chiếc xe
đạp chạy lọc cọc trên con đường đất gồ ghề đến nhà
bên chồng của dì Năm. Cái bịnh của nó thật
lạ kỳ không hiểu tại sao ngón tay cái của nó
thường sưng to và đầy mủ. Bác Ba nói tay nó
bị nhiễm độc vì lông sâu rọm, cái con
sâu màu đen đầy lông nhìn thấy ghê sợ.
Bác Ba chữa bịnh bằng cách lấy trái chanh cắt
làm hai rồi chà trên ngón tay cho đến khi da
tay mỏng ra (trong chanh có chất acid).. Bác dùng
gai chanh khều lông sâu rọm ra, sau đó bác
lấy một trái cà tím nướng chín còn
nóng đắp trên chỗ ngón tay bị nhiễm trùng.
Thế là vài ngày sau ngón tay lành
lại.
Con sông này cũng là nơi ba
nó thường rửa xe. Vui lắm vì ở quê ít ai
có cơ hội được đi xe hơi nên hôm nào ba
nó rửa xe là hầu như cả xóm đi theo. Dù
lên xe chỉ được chở đi một chút nhưng cũng đủ làm
cho mọi người hớn hở vui tươi. Một hôm xe đậu rất gần mực nước
sông không ngờ nước lớn lên quá nhanh,
tràn vào máy xe, thế là xe không nổ
máy, mọi người phải hì hục nhau đẩy xe về nhà.
Ban đêm ở Bến Súc khung cảnh rất
êm đềm có khi lại quá yên tĩnh. Đường
đêm thanh vắng đi qua bãi tha ma sao mà ớn lạnh.
Chập chờn mấy chiếc xe tăng rỉ sét của mấy ông lính
Tây năm nào bị bắn chết, hư hại nằm chơ vơ giữa trời
trông thật buồn thảm. Xa xa bên kia đường những mái
nhà tranh của những người Bắc mới di cư vào Nam.
Ngày xưa ở Bến Súc đa số là
người miền Nam, sau này có một số người Bắc đến định cư.
Họ đã gây nhiều chú ý, thắc mắc cho
dân làng, từ cách sinh hoạt, ăn mặc, giọng
nói. Đám con nít như nó thì thường
bị người lớn doạ nhát không dám ra đi chơi nhiều
vì sẽ bị họ bắt làm chả lụa, vì thế mỗi lần đi
thăm dì Năm của nó có căn nhà ở gần bờ
sông và phải đi ngang qua xóm nhà người Bắc
là nó vắt giò lên cổ chạy một hơi về
nhà. Năm ngoái họp mặt Trịnh Hoài Đức ngồi nhớ
chuyện xưa, mấy bạn Nam kỳ nhắc chuyện ”Bắt con nít làm
chả lụa” rồi cùng nhau cười rũ rượi cho cái ngu ngơ của
mình, trong lúc hai cô bạn Bắc kỳ ngỡ ngàng:
“Thiệt hả?”.
Ngôi nhà đầu tiên ba
má nó cất là nhà tranh vách đất ba
gian rộng rãi, phía sau là rừng cao su xanh thẳm.
Đây là chỗ cho nó và người anh thứ
sáu hay trốn ngủ trưa chạy rong chơi, đi lượm hột cao su cho đầy
thùng đem đi bán, cái loại thùng đựng dầu
lửa, còn gọi là dầu hôi. Có khi trời đang
nắng mà đôi khi xảy ra một cơn mưa bất chợt. Đó
là lúc trong rừng có nấm mối. Lúc nầy lũ
nhỏ rủ nhau chạy vào rừng cao su để tìm nấm, nhổ về cho
má nấu món nấm chưng hột vịt ngon số một. Bến Súc
về đêm với vài ánh đèn dầu leo lét,
khá giả lắm thì đèn “ măng sông”. Ba
nó quen sống ở thành thị, về đây ông nhớ
những ánh đèn điện màu. Tánh ba vui vẻ,
thích trang trí… Ông mua vài chục cây
đèn dầu nhỏ, rồi sơn cái chụp đèn đủ màu
xanh đỏ tím vàng. Mỗi buổi chiều ông bảo người anh
thứ ba của nó châm đầy dầu. Đêm về, ông đốt
đèn và treo lên. Từ xa nhìn thấy trông
như đèn điện chói sáng muôn màu rực
rỡ
Ngôi nhà thứ hai ba má nó
cất gần chợ hơn, được xây cất bằng vật liệu gạch, xi-măng,
đá rửa, lót gạch tàu. Nhà rộng lớn,
phía trước một gian bán tập hoá, kế là
phòng ngủ có một gác lửng. Một gian có
bàn bi da, bóng bàn, banh lắc .v.v. Nó
thích chơi banh lắc với mấy đứa nhỏ hàng xóm.
Nó thua thì không phải trả tiền. Mấy đứa kia thua
thì phải bỏ tiền vào trong máy mới được chơi nữa.
Nơi đây là nơi giải trí của những thanh thiếu
niên trong làng, cũng là nơi nhiều người đến để
trồng cây si vì chị Mai của nó đẹp. Nhà bếp
được nối liền với nhà trên qua một phòng ăn rộng
rãi, hai bên là khoảng trống lộ thiên, ba
nó trồng một cây bông giấy thật to trổ đầy hoa thật
đẹp, loại hoa hai màu trắng, hồng mà ba nó
công phu ghép tỉa.
Bến Súc là cả bầu trời thương
yêu của tuổi ấu thơ đơn sơ, mộc mạc, vui đùa với
thiên nhiên luôn sống động trong tâm hồn
nó. Nhớ những đêm sáng trăng anh Vân
hàng xóm đánh đàn dạy nó hát,
để có dịp làm quen chị Mai nó. Vui làm sao
trên tay cầm gói kẹo chocolate ”kiss” là món
quà của người anh đi học ở tỉnh về thăm nhà cho
nó. Nhớ sao là nhớ những ngày anh em nó đi
theo thầy giáo lên Dầu Tiếng làm văn nghệ, đi xem
đá banh. Nhớ nhất là khi anh nó đem chiến thắng
cho đội banh nhà bằng một cú đá rất ngoạn mục.
Trên đường trở về làng, bà con lối xóm ngồi
trên chiếc xe đò của ba nó vẫn còn
háo hức, vui mừng thắng trận. Nhớ những trưa hè ra
ngoài đồng lượm mót những trái dưa hấu èo
uột nhỏ đem về nấu canh tôm, mót giá đậu phộng về
cho má làm món giá xào ăn rất ngon.
Những ngày nghỉ học đu đưa tòn ten sau chiếc xe bò
đi chơi suối Cát. Rừng sâu âm u cây cao vời
vợi vang rền tiếng ve kêu hạ, tìm hái trái
cây rừng, vú bò, gùi, nhãn
lòng… Nhớ biết bao nhiêu cái không gian tĩnh
mịch của một quê hương thật thanh bình!.
(Houston, Hè 2011)