Trường xưa
ngày trở lại
NTĐ
(Tưởng nhớ về quý thầy cô với lòng tri ân,
đặc biệt đối với những vị đã mãn phần: Nguyễn Hiển,
Nguyễn Tường Thuỵ, Nguyễn Trọng Nhượng)
Tôi về đất Búng vào một ngày cuối năm
giáp Tết mong tìm lại chùm khế ngọt ngào
của những ngày xưa thân ái, tìm lại một thời
tuổi trẻ hồn nhiên trong trắng, tìm lại con đường xưa giữa
cánh đồng lúa vàng ngập hương lúa
chín dẫn đến trường trung học, ngôi trường chứa một
quãng đời hạnh phúc nhất .
…Tôi đi lại con đường xưa với tâm trạng của người lữ
hành cô độc, với nỗi bẽ bàng của người bị lỗi hẹn,
vì con đường xưa không còn nữa, không
còn là em nữa. Cánh đồng lúa chín
vàng đã biến mất thay thế bằng những dãy phố,
hàng quán xô bồ. Con đường giữa cánh đồng
lúa ngày xưa, rợp những tà áo trắng bay
trong gió, với tiếng guốc gõ lóc cóc,
nón lá che nghiêng mái tóc thề chỉ
còn trong ký ức. Giờ đây con đường đã được
trải nhựa rộng thênh thang xe cộ ngược xuôi chóng
mặt.
Trường nữ trung học cũ năm nào vẫn còn đó ẩn
mình sau ngôi trường tiểu học bán trú bề thế
mới xây sau nầy, như một chứng tích hoang phế ngậm
ngùi thân phận. Ôi, thời oanh liệt nay còn
đâu!
...Tôi lặng lẽ bước lên bậc tam cấp có
mái hình vòng cung. Tôi nghe như
có tiếng người xưa gọi về. Dòng sông ký ức
ngược dòng quay trở lại những tháng năm đẹp nhất đời
người cách đây hơn bốn mươi năm về trước…
Khoảng rộng thênh thang cạnh cầu thang lên lầu là
nơi thầy cô để xe. Tôi nhớ như in chiếc xe vespa xanh nhạt
của thầy Lê Đức Cửu thường dựng sát vách tường cạnh
chiếc bàn đôi dành cho học sinh trực. Xe Sach của
thầy Phán để kế đó. Chiếc Suzuki của thầy Thuật
màu đỏ. Còn chiếc Yamaha màu xanh là của
cô Đàn Hội… Bọn học trò chúng tôi
thường liếc qua đó để coi thầy cô vô chưa. Tuy
là toàn nữ nhi nhưng chúng tôi phá
phách không kém ai. Có hôm cả bọn
hái hoa dại trước sân trường cắm đầy xe vespa của thầy Cửu
để làm xe hoa. Có khi không chơi hoa nữa mà
rắc đầy cát lên xe. Ôi, nhứt quỷ nhì ma, thứ
ba là học trò … nữ.
Từ mái hiên hình vòm cung nhìn ra
sân trường rộng mênh mông ở giữa có cột cờ cao
vút. Mỗi sáng và chiều các lớp ra sân
cỏ sắp hàng chào cờ. Nơi đây có hình
ảnh cả lớp năm đệ lục bị quì gối dưới sân cờ vì tội
cười (hay lây) khi hát quốc ca.
Bước qua phòng giám thị là tầng trệt có bốn
lớp. Ký ức năm đệ lục cả bọn tôi gồm Xuân
Dung, Huỳnh Chân, Huỳnh thị Mỹ, Thái Hảo… chui hàng
rào mua củ sắn ăn nhiều đến đau bụng bị "Tào Tháo
rượt”. Xuân Dung có một bộ đồ chơi bán hàng
bằng nhôm má mới mua cho. Học lớp đệ lục rồi nhưng
chúng tôi vẫn còn thích mê tơi. Đi học
xong hai giờ đầu buổi sáng rủ nhau về ngõ ruộng, qua
đám đậu que đầy trái lủng lẳng. Chợt một đứa có
ý nghĩ hái mấy trái đậu que về nhà
Xuân Dung chơi nấu ăn. Thế là đứa nào cũng bứt lia
lịa bỏ vào cặp. Đang hái, bỗng từ sau lưng có
tiếng chạy thình thịch và tiếng la ỏm tỏi của bà
chủ ruộng: “Ai cho tụi bây hái đậu?”. Cả bọn xanh mặt cắm
đầu chạy thoát thân không dám ngoảnh mặt lại,
áo dài bay phất phới trong nắng trưa. Ôi, tuổi nhỏ
dại khờ!.
Lớn hơn một chút, lên lớp đệ ngũ, không còn
chơi trò bán quán nữa. Không thể giải
thích tại sao. Sáng nào tôi với Xuân
Dung cũng đi bộ vô chùa Phước Tường chơi. Ngôi
chùa cổ kính nằm dưới những tàng cây cổ thụ
và giữa rừng sim tím, tím cả mắt môi mỗi
mùa trái chín. Trong chùa có nhiều
học trò trọ học. Có bạn cùng lớp là chị
Hồng, chị Niềm. Em của chị Hồng là Hữu Lịnh. Thêm
vào đó là các anh học lớp đệ nhị, đệ nhất
là anh Châu, anh Thạch. Nhìn các anh ngồi
học bài chăm chỉ, tôi và Dung thật ngưỡng mộ.
Tôi còn nhớ bên hông chùa Phước Tường
có cái giếng nước rất trong, chung quanh giếng trồng đầy
rau trái thật mát mắt. Có bà sư già
gọi là bà Ba, vào buổi trưa bà thường hay
vo gạo nấu cơm ở đó. Ôi một thời tuổi nhỏ hồn nhiên,
sau nầy mỗi lần Xuân Dung về thăm quê hương, tôi
và Dung thường ngồi nhắc lại những kỷ niệm ngày
nào, rồi nhớ lại những người xưa để xem ai còn ai mất.
Ngày đó, trong mắt tôi và Dung , chị N.
là một nữ sinh thật xinh đẹp và có nhiều
chàng trai vây quanh. Tuy cùng lớp nhưng tôi
và Dung chỉ là những đứa trẻ con bên chị. Chị H.
thường đi chung với chị N. Cả hai cùng từ Phú Hoà
Đông qua trọ học. Chị H. không đẹp như chị N. nhưng
có gương mặt rất có duyên, đằm thắm, tự tin,
nói năng dịu dàng nhỏ nhẹ. Cuộc đời sau nầy không
ai ngờ được “hồng nhan đa truân”. Chị N. vẫn ở quê cũ.
Còn chị H. là một người thành đạt và
có một gia đình viên mãn ở Sài
Gòn. Anh Châu không biết bây giờ ra sao,
còn anh Thạch được biết là một "người làm vườn"
thành đạt ở Úc Châu. Anh Thạch chắc không
còn nhớ hai đứa bé con này đâu!.
Và hai đứa bé con ngày xưa, sau những
tháng ngày khó khăn gian khổ của thời bao cấp,
bươn chải tất bật nuôi con, khi con cái trưởng
thành, ngước mặt lên thì “chiều đã
tím loang vỉa hè”. Dung định cư cùng gia
đình bên kia bờ đại dương. Tôi về làm
dâu nơi xứ lạ, xin nhận nơi ấy làm quê hương thứ
hai, để: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về
quê mẹ ruột đau chín chiều”.
Lớp đệ tứ học lại phòng học của lớp đệ thất, phòng kế
chót. Tôi nhớ trước hết là thầy Đệ dạy toán.
Thầy trẻ đến nỗi có đứa nói các anh lớp đệ nhất
bên trường nam qua dạy. Cô Tính dạy quốc văn. Thầy
Đặng Thanh Châu dạy vạn vật. Thầy đi dạy tay không cầm một
thứ gì. Thầy vẽ cơ thể con người rất nhanh và rất đẹp.
Thầy giảng bài như kể một câu chuyện, thật giản đơn,
không lý thuyết. Năm ấy, những ngày tháng 12
rất lạnh, bông bù xít nở trắng cả một góc
rào sau cửa sổ, thầy nhìn ra lặng yên một
chút rồi kể cho chúng tôi nghe, lúc thầy
còn trong lính đi hành quân, mùa lạnh
bông bù xít nở đầy cả núi rừng, thầy gọi
là Vương Hậu Rừng Hoang. Sau nầy chúng tôi thường
bắt chước thầy cũng gọi bông bù xít là Vương
Hậu Rừng Hoang.
Năm đệ tứ lớp có một thành viên mới từ trường
ngoài vô. Bạn tên T., ốm như sợi dây leo,
đôi mắt tròn xoe đen thui thật ấn tượng. Vì bạn
vô sau nên cô xếp bạn ngồi bàn chót.
Ngày đầu tôi chỉ biết bạn vậy thôi. Sau nầy
tôi được biết thêm một điều nghiệt ngã nữa. Bạn
là em gái của người xưa, của mối tình đầu trong
trắng đã vỡ tan. Ngày ngày nhìn T.,
tôi nhớ lại anh. Những ký ức ngọt ngào, những cảm
xúc nồng ấm trở về. Phải thật lâu tôi mới lấy lại
thăng bằng, và coi T. như những người bạn bình thường
trong lớp. Tuổi trẻ hồn nhiên và thời gian một lần nữa
làm lành lại vết thương ngày xa xưa ấy. Tôi
còn nhớ những năm sau nầy T. học rất giỏi. T. và bạn B.
thường đi học chung vì gần nhà. Tin cuối cùng
là T. và B. cùng thi đậu vào Đại học sư
phạm. Sau biến cố 1975 tôi không còn biết tin
gì về bạn. Nghe B. nói bạn và gia đình định
cư bên kia bờ đại dương xa thẳm. Ôi không bao giờ
tôi quên đôi mắt của bạn T., tròn xoe, đen
thật đen, ngơ ngác bước vào lớp tứ P1 lần đầu tiên.
Đôi mắt thật đẹp.
Trở lại kế bên phòng giám thị là lớp đệ tam,
năm ấy trường đổi lại là lớp 10. Tôi bỗng nghe văng vẳng
tiếng thầy Cửu giảng ca dao, giọng Bắc kỳ của thầy ngọt ngào,
sâu lắng, buồn mênh mông :
…Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày
còn không?
Bây giờ em đã có chồng….
Hay nghe như có tiếng người thiếu phụ ru con
giữa trưa hè như khóc thầm cho thân phận
mình :
Ầu ơ, tưởng giếng sâu, tôi thắt sợi
dây dài.
Ai ngờ giếng cạn, tôi tiếc hoài sợi
dây.
Tôi lại nhớ tới hình ảnh thầy Trần Khắc Cung dạy
Pháp Văn. Thầy đi chiếc mobylette xanh nhạt. Nhớ tới lúc
thầy thở dài ngao ngán cho lớp Pháp văn vì
cả kỳ thi cá nguyệt ít ai trên điểm trung
bình, trừ Lâm Thuý Vân, Lê
Tâm, Trương thị Bảy…
Thầy Bùi Thế San dạy Vạn vật, đeo kiếng cận trắng, cao lớn đẹp
trai. Thầy đi chiếc xe vespa màu trắng, giọng Bắc giảng
bài của thầy thật truyền cảm. Tôi còn nhớ cuối năm
lớp 10 thầy đem vào lớp những logo đủ màu hình
bông hoa thật đẹp, cho mỗi đứa một cái. Tôi cũng
được thầy cho một cái bông màu xanh dán
lên cặp táp, và chiếc cặp da dán bông
tròn màu xanh đã theo tôi hết quãng
đời trung học. Cô Hoàng Thị Đàn
Hội năm ấy dạy Sử Địa lớp tôi. Cô mới ra trường rất trẻ
và năng động. Cô như một làn gió mới,
nóng bỏng thổi vào trường. Khi giảng bài, nhất
là những bài sử ký, cô giảng với tất cả
tâm huyết nên rất sinh động, hết giờ hồi nào
không hay. Hình ảnh sinh động của cô còn ở
chỗ cô có giọng Huế dịu dàng đầm thắm. Dáng
nhỏ xinh, trẻ trung của cô thật duyên dáng di chuyển
từ bục giảng qua tấm bảng đen hay xuống bàn học trò như
con chim se sẻ nhảy chuyền cành. Hình ảnh của cô
chắp cánh cho ước mơ làm cô giáo của
tôi bay cao (nhưng không thành).
Tôi nhớ năm ấy Ngọc Liễu làm trưởng lớp. Liễu rất đẹp
nhưng hơi đẫy đà. Tuy vậy, dáng đi của cô
nàng nhẹ nhàng như lướt gió. Lưu Ánh Tuyết
làm trưởng ban thể thao, làm trưởng đoàn lớp 10 A1
theo thầy Nguyễn Trọng Nhượng đi cắm trại ở Bãi Dâu Vũng
Tàu. Còn tôi trong ban báo chí với
Hoàng Mai. Năm ấy (lớp 10) cả lớp ra được tờ báo
Xuân đặt tên là Cỏ May. Toàn ban chấp
hành lớp qua bên trường nam bán báo.
Báo Cỏ May của chúng tôi đắt như tôm tươi,
bán hết trơn trong một thời gian ngắn thật là vui.
Tôi leo từng bậc cầu thang lên lầu. Kỷ niệm lớp 11
ùa về. Ký ức một thời con gái đã biết
làm dáng, tóc dài ngang vai, nón
lá bài thơ che nghiêng tà áo trắng,
đôi guốc gỗ khua lóc cóc mỗi khi lên trả
bài.
Thầy Nguyễn Hiển dạy Pháp văn chỉ mấy tháng đầu năm.
Nhà thầy ở Sài Gòn. Thầy đi dạy bằng chiếc xe
Honda màu xanh biển. Tôi còn nhớ thầy đeo
kính cận gọng đen, và Pháp văn vẫn là
món ăn khó nuốt của phần đông chúng
tôi. Một hôm, tới giờ học mà cả lớp đợi hoài
không thấy thầy Hiển vô. Hơn một tiếng sau thì được
tin thầy Hiển trên đường đi dạy bị tai nạn giao thông,
gãy chân, đang nằm ở bệnh viện Bình Dân. Thế
là cả lớp, leo lên xe đò Đồng Hiệp chạy đường
Bình Dương – Sài Gòn để đi thăm thầy. Áo
dài của lớp tôi trắng cả phòng bệnh viện
Bình Dân ngày hôm ấy và nhiều
tháng ngày sau nữa. Xóm nhà lá
thường xuống thăm thầy, vì vết thương nặng nên thầy nằm ở
đây thật lâu. Sau nầy thầy phải đi với một chân bị
tật…Và cuộc đời như gió cuốn, tôi còn nhớ
khi tôi tất bật đèn sách những năm đầu đại học,
thầy có tới ký túc xá thăm tôi. Thầy
đi với cây gậy… Sau cơn bão 1975, không có
tin gì của thầy đến khi 40 năm sau đọc trên trang
nhà Trịnh Hoài Đức mới biết thầy đã mãn
phần. Ôi! thầy ơi!
Thầy Nguyễn văn Mẹo thay thầy Hiển. Thầy thật hiền, vui tánh,
thầy có lối kêu trả bài thật lạ, cả lớp im phăng
phắc trong giờ trả bài, thầy nhìn sổ điểm gọi tên:
-Năm nhơn hai trừ một (5x2) - 1.
Không khí căng thẳng đã giãn ra nhưng thầy
gọi ai? Tíc tắc còn chưa kịp hiểu ra thì có
một bóng áo dài cầm tập đi lên.
Cả lớp “à” lên một tiếng và phục lăn
trí thông minh của bạn Nguyễn thị Chín (Chín
đã mãn phần sau tết 2011). Lớp có bạn tên Đỗ
thị Năm, thầy gọi ngược lại là Năm thi đỗ, bạn Năm rất
thích thú với cái tên thầy gọi và năm
ấy bạn Năm thi đỗ tú tài phần một kỳ đầu. Bạn Xuân
Mai bị bệnh tim thường hay mệt xỉu. Hôm ấy, giờ trả bài,
thầy kêu Xuân Mai. Nhỏ Mai đứng lên chưa đầy một
phút rồi từ từ ngã quỵ xuống sàn nhà bất
tỉnh vì sợ hãi (ai làm học trò mà
không sợ bị kêu lên trả bài), làm cả
lớp và thầy Mẹo một phen hú vía. Còn Phương
Loan mồ hôi ra ướt đẫm cả hai tay khi giải bài toán
trên bảng.
Thầy Trà văn Gởi dạy Vạn Vật. Lớp 11 học Thực vật. Thầy dạy tới
bài Hoa và Trái, thầy sai tôi, Xuân
Mai, Hoàng Mai (ngồi bàn đầu) đi xuống lầu hái cho
thầy thật nhiều bông. Ba đứa qua trường tiểu học Thạnh
Bình cạnh trường nữ xin hái bông để học,
không những được tặng rất nhiều bông, mà còn
được thầy Nguyễn văn Là (hiệu trưởng trường tiểu học Thạnh
Bình) chụp tặng cho mấy tấm hình thật đẹp, giờ là
những tấm hình kỷ niệm rất quí mà chúng
tôi còn giữ mãi.
Thầy tên Gởi nhưng chúng tôi đặt thầy là
Chùm Gởi, chẳng hạn như: “Ê, hôm nay thầy
Chùm Gởi trả bài đó” (xin thầy Gởi tha lỗi cho
nhân vật thứ ba.. tụi em). Lớp 11, xóm nhà
lá chúng tôi ngồi gần nhau chơi chung một
nhóm (học trung bình) Nguyễn thị Tư, Bạch Vân,
Nguyễn thị Chín, Phương Loan, Đỗ Năm, Huỳnh Chân,
Xuân Dung, Huỳnh thị Mỹ, Thái Hảo… Mỗi tuần mấy lần,
có giờ trống là leo lên xe đò xuống
nhà bạnTư tận Vĩnh Phú chơi. Chúng tôi
mê xuống nhà bạn Tư như mê đi chùa Phước
Tường ngày xưa. Cả bọn phá phách, hái
trái, đùa giỡn la hét. Ba má bạn Tư
không những không la rầy, mà rất thương, còn
làm đồ ăn khoản đãi. Tôi nhớ hoài món
gỏi bông sầu riêng má bạn Tư cho ăn. Lạ và
ngon không thể tưởng!. Giờ được ăn nhiều món ngon, đắt
tiền hơn, sang trọng hơn, nhưng không bao giờ tìm được
hương vị ngon ngọt tuyệt vời của gỏi bông sầu riêng
ngày xưa ấy. Hồi học lớp 11, bạn Bạch Vân xinh nhất,
có nhiều người theo đuổi. Có anh Hùng nhiều lần đi
theo bọn chúng tôi đến nhà bạn Tư chơi. Hùng
có máy chụp hình chụp cả bọn rất nhiều
hình. Bây giờ xem lại những tấm hình nầy thì
thấy như cả một thời con gái hiện về, hồn nhiên, vô
tư lự. Cuối năm lớp 11 ấy, Bạch Vân theo chồng bỏ cuộc thi,
và kỳ thi tú tài phần một cũng làm tứ
tán mỗi đứa một phương trời. Bạch Vân giờ ở phương xa chắc
vẫn còn nhớ những ngày rong chơi ở Vĩnh Phú ...
Lớp 12 qua trường nam học. Con đường đến trường nam cũng đầy bướm
vàng bay. Sau kỳ thi tú tài phần một, tôi
chia tay tất cả, chỉ còn Huỳnh Chân, Hoàng Mai
là bạn thân. Lớp 12 A1 là lớp đầu tiên của
dãy lớp mới do công binh Đại Hàn xây tặng,
nằm kế bên hàng rào trường Nông Lâm
Súc. Mỗi sáng, tôi hồn nhiên xách cặp
đi bộ tới nhà Huỳnh Chân gần trạm xá Búng rủ
nhỏ đi học. Hai đứa nói đủ thứ chuyện trên đường đến
trường. Thích nhất là những ngày cuối năm. Tiết
trời lành lạnh. Cánh đồng lúa vàng
bát ngát cạnh trường nam có đám đã
gặt còn trơ gốc rạ. Khói đốt đồng bay trong nắng
hoà cùng sương mù buổi sáng sớm, thơm
mùi lúa chín, mùi đất, mùi sương
khói và vương vương lên tà áo
dài đi học buổi sớm mai. Gió lập đông thổi về
làm những tà áo dài trắng bay bay,
làm mái tóc dài ai đó rối tung. Qua
sân trước văn phòng rộng mênh mông, tượng danh
nhân Trịnh Hoài Đức uy nghi thâm trầm dưới
tán những cây dầu to lớn. Sau văn phòng là
khoảng sân cát trắng rợp bóng những cây me
Tây già, chạy dài tới cột cờ. Dưới bóng
mát me Tây già cạnh văn phòng là
chiếc xe hơi màu trắng của thầy hiệu trưởng và của thầy
Nhượng thường đậu. Lá vàng rụng đầy xe thật đẹp.
Tôi và nhỏ Chân thường vào quán
bác Trầm mua bánh mì ăn sáng. Bác
Trầm gái rất thương bọn học trò con gái, nhận
bánh mì toàn thịt nạc. Bác nói
còn thịt mỡ để dành cho bọn con trai. Ăn thêm một
ly đậu đỏ bánh lọt là vừa lúc chuông
vào học.
Năm học lớp 12 là mùa hè đỏ lửa 72. Chúng
tôi học Pháp văn với thầy Nguyễn Trọng Nhượng. Thầy ăn mặc
rất đẹp, đúng mốt. Thầy thường nói: “Chỉ còn một
năm nay nữa thôi, sang năm không còn ai ở bên
cạnh các em để dạy bảo nữa đâu”. Thầy thường dạy
chúng tôi cách ăn nói, đi đứng như thế
nào cho lịch sự, như không bao giờ bỏ dép ra khỏi
chân khi ngồi trong lớp hay những chỗ đông người… Những lời
dạy dỗ ấy quí báu biết bao cho cuộc sống sau nầy của
chúng tôi.
Lớp chúng tôi học sử địa với thầy Nguyễn Thiện Thuật. Thầy
rất đẹp trai, ăn nói lưu loát như bôi mỡ vào
miệng. Thầy dạy sử địa rất hay. Cả lớp rất thích giờ thầy. Thầy
Thuật có hai kỷ niệm với lớp tôi năm ấy. Tôi nhớ lớp
qua học ở dãy trệt, phòng đầu tiên của trường nam.
Chuyện cũng không có gì to lớn lắm, nói
chuyện trong giờ học thường thì thầy cô chỉ nhắc nhở rồi
thôi, trước thầy cũng vậy, nhưng hôm ấy bạn Q. cũng
nói chuyện, không hiểu sao thầy kêu lên
tát vào mặt Q. một cái thật mạnh, rồi đuổi ra khỏi
lớp. Q. ôm mặt ra ngoài đứng một hồi rồi ôm cặp về
luôn. Cả lớp sững sờ im lặng. Mấy hôm sau có giờ của
thầy, bạn Q. cũng đi học bình thường, và tưởng thầy
đã nguôi cơn giận, nhưng không ngờ, thầy đuổi bạn Q.
ra ngoài tiếp và nói bạn Q. ngày hôm
qua bỏ đi về là sai, dù có bị đòn chảy
máu môi cũng phải đứng ngoài cửa lớp!
Kỷ niệm thứ hai là hôm ấy thầy vô lớp sớm khi
bàn giáo sư còn nhiều đồ đạc linh tinh chưa kịp
dẹp. Thầy hỏi của ai, cả lớp im lặng. Thầy không dạy, phạt cả lớp
ngồi im đến hết giờ, luôn cả tuần sau, không khí
thật là ngột ngạt, khó chịu. Không biết sao, sau
đó nhỏ L. thú nhận. Thầy phạt L. quỳ gối giữa cửa ra
vào đến hết giờ hôm đó. Tuổi trẻ dễ quên
và ngày hôm sau vẫn hồn nhiên vô tư
đùa giỡn… Giờ nghĩ lại thấy thầy thật nghiêm khắc, nhưng
chính nhờ sự nghiêm khắc ấy chúng tôi
ngày nay mới nên người.
Thầy Nguyễn Tường Thuỵ dạy toán. Thầy trẻ, bao giờ cũng chỉ mặc
độc một tông màu là quần kaki vàng và
áo sơ mi trắng. Giờ học toán thật vui và lạ
lùng nhất vì tập toán không ai được bao sạch
sẽ. Học hình học hay bất cứ điều gì không được kẻ
bằng thước kẻ, mà kẻ bằng tay, cho nên chỉ một cây
viết và một cuốn tập trong giờ toán mà thôi.
Thầy bảo là để chuẩn bị cho chúng tôi năm sau
vào đại học, không ai đọc cho chép đâu, thầy
giáo đại học chỉ giảng bài như bay trên bảng, học
trò bên dưới muốn ghi bài ra sao thì ghi.
Sau nầy tôi cũng thấy nhờ vậy, nên chúng tôi
không hề lạ lẫm trong giảng đường đại học. Có một kỷ niệm
đẹp với thầy mà bây giờ tôi mới nói.
Không phải chuyện của tôi mà chuyện của một người
bạn cùng lớp. Hôm ấy, bạn tôi cứ ngập ngừng
mãi, rồi cuối cùng nhờ tôi một chuyện thật bất ngờ,
không có trong trí tưởng tượng của tôi. Bạn
tôi nhờ tôi trao dùm cho thầy Thụỵ một phong thơ.
Tôi ngu ngơ làm theo lời bạn nhờ, lúc thầy đứng một
mình ở hàng ba lớp học, tôi đưa bao thơ đó
cho thầy. Thầy nhận và mỉm cười không nói
gì. Rồi tôi chạy vụt đi khi mình đã
hoàn thành nhiệm vụ. Các bạn cũng biết đó
là bao thơ gì rồi chứ.
Thật là vụng dại, sau nầy bạn tôi cũng quên đi như
bao kỷ niệm đẹp của một thời làm học trò nhiều mơ mộng.
…Ký ức mênh mang dẫn tôi giã từ trường nữ, đi
lại con đường cũ trở lại trường nam. Ngã ba đường rầy có
ngôi nhà xinh đẹp giữa vườn cây đầy hoa bướm vẫn
còn đây, nhưng con đường đến trường mỗi ngày của
tôi và Huỳnh Chân không còn nữa.
Cánh đồng lúa vàng cạnh trường nam đã biến
mất thay vào đó phố thị sầm uất, xe cộ ngược xuôi.
Tất cả giờ chỉ còn trong kỷ niệm. Trường xưa được xây cất
lại thật hoành tráng, đẹp như trong truyện cổ
tích, chứng tỏ sự phát triển của nước nhà, nhiều
dãy lầu ngang dọc, mái ngói đỏ thắm nhìn
xuống hàng phượng vĩ rợp bóng sân trường.
Bước chân tôi dừng lại bên tượng người xưa dưới
tàng cây dầu xao xác lá vàng rơi
trong cơn gió cuối năm lạnh buốt, chứng tích duy nhất
ngày xưa còn sót lại. Hàng cây dầu
vẫn còn đây giờ đã thành cổ thụ. Tượng người
xưa vẫn còn đây vai áo bạc màu năm
tháng. Và hình như cơn gió lạnh vừa thổi
qua là cơn gió của những ngày cuối năm lớp 12.
Còn y nguyên tiếng cười của Huỳnh Chân, của
Hoàng Mai hồn nhiên trong vắt bên hồ nước long lanh
dưới chân tượng đài. Chiếc lá vàng
nào đó rơi trên vai bức tượng làm nhớ lại
bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan mà thầy Cửu
trên bục giảng năm nào:
...Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Đền cũ lâu đài bóng tịch
dương...
Văn phòng trường nam xưa với khoảng sân rộng mênh
mông cũng chỉ còn trong quá khứ. Bây giờ nơi
đây là phòng truyền thống, xây dựng chiếm
luôn khoảng sân xưa, hoành tráng rộng lớn hơn
nhiều nhưng sao vô hồn và xa lạ quá. Biết cuộc đời
là vô thường nhưng sao lòng tôi vẫn
xót xa…
Bóng chiều đã về màu tím trên ngọn
cây dầu cổ thụ. Gió cuối năm xao xác thổi từng cơn
lạnh giá.
Xin giã từ tất cả, giã từ những kỷ niệm buồn vui,
giã từ trường trung học thương yêu, ký ức và
hiện tại đan xen. Cánh cổng trường khép lại sau lưng
tôi, như thầm hiểu rằng đây là lần cuối cùng
tôi trở lại .
Ôi! Một thời tuổi trẻ hạnh phúc nhất xin giữ lại
làm hành trang cho con đường phía trước
không còn bao xa nữa. Dù mỗi người trong
chúng ta có được vòng tròn viên
mãn hay không viên mãn. Dù cuộc đời
còn không ít khó khăn, xin hãy để nụ
cười ánh mắt hồn nhiên ngày xưa đó
xoá tan mọi ưu phiền khi nhắc lại. Giã
từ Trịnh Hoài Đức với lòng nhẹ tênh!. Cho tôi
xin được yêu thương và xin được thứ tha! Trịnh Hoài
Đức ơi ! Thầy cô ơi! Bạn bè ơi!
NTĐ
Cuối năm 2011.