Nhớ Về Một Thuở
Lưu Thanh Bình
Thời
trang
Đầu thập niên 70, thời trang nữ sinh có
một sự thay đổi đáng kể: chiếc áo dài raglan tay
ráp không thắt eo giúp người mặc có vẻ cao
hơn, tha thướt hơn và che bớt đi những khiếm khuyết cơ thể, nhất
là làm giảm đi độ cong của những chiếc lưng tôm
và phần mông không bị phình ra (thắt eo như
chiếc áo dài cũ khiến người nhìn có cảm
giác thân thể người ta chia làm hai phần:
trên eo và dưới eo), vạt áo rút ngắn
lên dưới gối một chút, trông thanh thoát hơn,
trẻ trung hơn và gợi cảm hơn. Cộng thêm chiếc giày
bít mũi quai dây tréo vừa kín đáo vừa
khoe khoang một chút. Rồi thêm chiếc nón lá
và chiếc cặp che ngang là đủ bộ. Những năm đệ nhị cấp,
buổi sáng chịu khó đi học sớm hơn một chút,
không phải để quét lớp mà ra tựa lan can ngắm
tà áo dài Tuyết Đông và Tuý
Oanh thướt tha khoan thai băng qua sân trường. Ngày
đó kể như đủ vốn.
Nữ sinh khoá 11 (ảnh Nguyễn Xuân Dung)
Hình như hồi ấy gu nhỏ nhắn, thon mảnh đang
lên ngôi kiểu “vai em gầy guộc nhỏ”, nói chung ốm
là đẹp. Còn thời trang nam sinh, cứ
nhìn trong trang nhà Trịnh Hoài Đức phần
hình ảnh sinh hoạt, các bạn sẽ nhớ lại một thời:
Áo sơ mi không còn rộng thùng thình
nữa mà ôm sát người kiểu The Beatles, cổ áo
bẻ to bản, chất liệu vải KT 3000 trông thật mỏng manh, nếu rủi
mà bị ướt do mưa chẳng hạn thì phần da thịt như lộ hẳn ra
ngoài, quần không còn túm nữa mà dưới
gối bắt đầu loe ra đến 20-30 cm, thắt lưng ít khi may con bọ để
xỏ dây nịt mà cài bằng móc nhỏ vắt
qua, giày bốt cao hơn mắt cá chân, đa số
chuộng màu nâu hoặc vàng da bò hơn
màu đen…
GS Nguyễn thiện Thuật và nam sinh khoá 12 (ảnh Lê
thành Danh)
Ở Sài Gòn hiện nay có một
quán cà phê thoáng mát yên tĩnh
nằm trong một ngõ nhỏ trên đường Nguyễn Văn Trỗi
(Công Lý cũ) Q3, tường treo đầy những hình ảnh sinh
hoạt Sài Gòn thời thập niên 60, 70 thế kỷ trước như
cầu Bình Lợi, cổng tam quan Lăng Lê Văn Duyệt, chiếc Velo
Solex, trường nữ Lê Văn Duyệt, trường Văn Hiến, trường Gia Long,
xe taxi con cóc, chợ Bến Thành, đường Lê Lợi, Thảo
Cầm Viên… làm khách gợi nhớ đến một thời đã
qua. Thật khó bứt ra khỏi những hình ảnh đen trắng hoặc
màu nhờ nhờ cắt ra từ những tờ báo cũ cách nay nửa
thế kỷ. Chứng tích của một thời mà mỗi người đều tự
tìm thấy mình trong đó. Quán cà
phê có tên là Một Thuở.
Thơ
Mỗi lần đi qua Biên Hoà, mình
thường đưa mắt tìm trường trung học Ngô Quyền toạ lạc
bên trục đường chính, có kiến trúc y hệt như
Trịnh Hoài Đức chúng ta. Nếu Trịnh Hoài Đức
hãnh diện là chiếc nôi của Nguỵ Văn Thà
thì Ngô Quyền cũng hãnh diện với một Nguyễn Tất
Nhiên (sinh năm 1952), nhà thơ trẻ một thời nổi tiếng với
những bài Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Masoeur, Khúc Buồn
Tình, Hai Năm Tình Lận Đận (đã được Phạm Duy phổ
nhạc), Linh Mục (Nguyễn Đức Quang phổ nhạc) … Nhà thơ tuổi
Nhâm Thìn, đồng tuổi với cựu học sinh khoá 9,
khoá 10 trường ta. Tuổi ấy ra đường lúc nào
cái bóp cũng dày cộp, không phải có
nhiều tiền mà nhiều…giấy tờ.
Nguyễn Tất Nhiên (nguồn: Wikipedia)
Thơ Nguyễn Tất Nhiên thật lạ, vần điệu ra
ngoài những khuôn sáo cũ, tứ thơ cũng thật dữ dội,
mà lại phù hợp với tâm lý giới trẻ nên
được đón nhận nồng nhiệt, nhất là khi một số bài
đã được phổ nhạc. Thật buồn là nhà thơ đã
tự kết liễu cuộc đời đầy trắc trở của mình khi mới 38 tuổi, hay
tại tinh anh phát tiết ra ngoài sớm quá nên
yểu mệnh? Mộ ông hiện nằm trong nghĩa trang Westminster, Little
Saigon California, đến nay vẫn được nhiều người đến viếng.
Khúc buồn tình (1970)
Người từ trăm năm
Về ngang sông rộng
Ta ngoắc mòn tay
Trùng trùng gió lộng
(Thà như giọt mưa
Vỡ trên tượng đá
Thà như giọt mưa
Khô trên tượng đá
Có còn hơn không
Mưa ôm tượng đá)…
(Phạm Duy phổ nhạc bài này thành “Thà Như
Giọt Mưa”)
Có một khoảng lặng sau năm 1968, an ninh tạm vãn hồi ở
các đô thị và trục lộ chính. Sinh hoạt hiệu
đoàn Trịnh Hoài Đức nhờ vậy cũng hoạt động rất sôi
nổi: thể thao, văn nghệ, công tác xã hội và
cắm trại. Hiệu trưởng là thầy Lê Tấn Lộc cũng rất ủng hộ
những hoạt động này, mà điển hình là lần
văn nghệ học đường Trịnh Hoài Đức lên truyền hình
và lần cắm trại toàn trường tại Vũng Tàu đầu năm
1971. Đây cũng là thời hoàng kim của báo học
trò: báo tường, báo lớp, báo trường,
báo liên trường… nhất là những dịp Xuân về
Tết đến, tất cả lại rộn ràng với những chương trình, kế
hoạch viết bài như trăm hoa đua nở. In xong rồi phân phối
cho lớp, khối lớp kiểu cây nhà lá vườn.
Rồi thành lập đoàn đi bán
báo dạo ở các trường bạn. Thầy cô phải dừng lại
bài giảng vài phút để “phái đoàn”
tiếp thị. Đi dọc theo lối đi giữa lớp, mỗi bàn rải vài
quyển nơi đầu bàn kèm một cái nhoẻn cười thật dễ
thương. Trong lúc đó một cô nàng lém
lỉnh đứng giữa lớp thao thao tự giới thiệu. Gọi đặc san cho oai chứ
thật ra chỉ là tập giấy xấu màu ngà, quay roneo
khổ nhỏ, nhiều trang chữ bị vết mực lem luốc, bên ngoài
là hình bìa thường trang trí những
chú chim bồ câu, những cánh phượng rơi rơi
và làn tóc dài buông xuôi xuống
hai vai.
Nhớ có lần một cô nàng nữ sinh
trường bạn lại còn đưa thơ vào lời giới thiệu đặc san của
trường mình làm thầy cô cũng bật cười:
Tóc em dài, em cài hoa
thiên lý
Cái miệng em cười, anh để ý anh thương
Bao năm qua rồi cô nàng là
“dân” ở đâu không còn nhớ nữa, hình như
là Ngô Quyền hay Lý Thường Kiệt gì
đó, nhưng cái miệng liến thoắng nhí nhảnh
thì không quên được…
Nhạc
Nếu được hỏi ai là người hát nhạc
Trịnh hay nhất thì tôi xin trả lời ngay: Khánh Ly !
Một giọng ca trời phú để hát nhạc Trịnh, rất riêng,
rất độc đáo. Khi Khánh Ly hát bài
nào của Trịnh Công Sơn rồi là như đặt luôn
dấu ấn lên bài đó, như đúc cốt luôn,
những người hát sau chỉ là tráng men mà
thôi. Đối với công chúng, họ là người của
nhau. Thật xúc động khi nghe Khánh Ly thổn thức
“…ông là hình còn tôi là
bóng…” trong một đêm diễn năm 2001 để tưởng niệm đến
cố nhạc sĩ.
Nói thế không có nghĩa là
phủ nhận giọng hát của Lệ Thu, Cẩm Vân, Hồng Nhung, Lan
Ngọc… là những giọng hát cũng rất điêu luyện khi
hát nhạc Trịnh sau này, nhưng làm sao xoá
được dấu ấn Khánh Ly trong lòng người yêu nhạc
(Đây chỉ là cảm nhận chủ quan của người viết mà
thôi). Sự gắn kết của hiện tượng Khánh Ly – Trịnh
Công Sơn còn do đặc điểm thời cuộc, hoàn cảnh ra
đời của nhạc Trịnh lúc đó. Và nổi tiếng
cùng thời với nhạc sĩ Trịnh còn có Ngô
Thuỵ Miên, Vũ Thành An, Phạm Duy… mỗi người
có nét hay riêng như bầu trời có nhiều
vì sao cùng soi sáng cho nhau.
Dù cho đến nay vẫn còn nhiều
ý kiến trái chiều khi nhận xét về con người
này, khen có chê có nhưng khó
mà phủ nhận mảng tình ca của Trịnh Công Sơn
có một vị trí đặc biệt trong lòng giới sinh
viên học sinh thời ấy. Nhớ những ngày xuống Sài
Gòn đi học thêm toán lý hoá, buổi
trưa tấp vào cà phê Nguyễn Du trốn nắng, nhấp từng
ngụm cà phê nghe Hạ Trắng, Như Cánh Vạc Bay xen với
những bản hoà tấu của Paul Mauriat, The Beatles…
Nhạc Phạm Duy cũng rất gần với giới sinh viên
học sinh. Mỗi lần qua đường Duy Tân bây giờ gọi là
Phạm Ngọc Thạch mình lại nhớ bài Trả Lại Em Yêu với
câu “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Thực ra gu hồi
ấy là trà Lipton chanh đường chớ không phải chanh
đường. Nhưng cây dài bóng mát thì
quá đúng, mát chỉ thua Thảo Cầm viên
mà thôi. Và biệt tài phổ nhạc thơ hay của
ông thì ai ai cũng công nhận.
Ngoài ra nhạc tiền chiến cũng chiếm một vị
trí đáng kể trong lòng giới sinh viên học
sinh yêu nhạc. Lời nhạc trữ tình lãng mạn, cung bậc
êm êm nhẹ nhàng sâu lắng. Nên ai đang
yêu thì rất thích nghe mà ai đang …
không được yêu cũng thích. Thực ra gọi là
nhạc trữ tình mới đúng, như bài Mắt Biếc của
Ngô Thuỵ Miên do Duy Trác hát, có thể
nói hay không thua bài Lá Thư của
Đoàn Chuẩn - Từ Linh chút nào. Sau này
có thêm bài Riêng Một Góc Trời (1997)
do Tuấn Ngọc hát cũng vậy.
Chỉ trừ dòng nhạc bolero là
không được (giới HS-SV) yêu chuộng, đó cũng
là một bất công mà mình đã nói
đến trong bài Khai Bút Đầu Xuân… Thử nghe lại
bài Tạ Từ Trong Đêm trong một không gian trầm lắng,
yên tĩnh coi. Có thể bạn sẽ trải nghiệm một cảm
giác chưa hề biết đến, như gặp lại người bạn cũ sau ba bốn mươi
năm quên lãng, như đọc lại một quyển sách quen quen
đã bị một lớp bụi thời gian phủ mờ… Nhạc vàng một thời bị
lên án, nay cũng đã lấy lại vị trí vốn
có của nó. Bằng chứng là Chế Linh, Thanh Tuyền…
cũng được ái mộ rần rần khi về Việt Nam biểu diễn ở Hà
Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn vừa rồi. Quả thực thời
gian là vị phán quan công bằng nhứt. Chỉ mong sao
một ngày nào đó, sử trong nước cũng sẽ được viết
lại, đánh giá lại khách quan công tội triều
Nguyễn chứ đừng giận cá chém thớt bôi đen cả một
vương triều như vậy.
Học hành
Hồi ấy, mỗi tỉnh ở miền Nam đều có một trường
công lập mang tên danh nhân lịch sử mà chỉ cần
nghe tên là biết ngay trường đó ở đâu, như
Trịnh Hoài Đức - Bình Dương, Ngô Quyền - Biên
Hoà, Lý Thường Kiệt - Hóc Môn, Nguyễn
Đình Chiểu - Mỹ Tho, Phan Thanh Giản - Cần Thơ, Thoại Ngọc Hầu -
Châu Đốc, Hoàng Diệu - Trà Vinh, Châu Văn
Tiếp - Phước Tuy… Học sinh các tỉnh được mang phù hiệu
trường công lập là một vinh hạnh bởi vì không
phải ai muốn vô học cũng được mà phải thi tuyển, có
khi phải hai keo mới vượt vũ môn. Trường tốt, học sinh giỏi,
giáo sư tận tâm nên tỷ lệ học sinh đậu Tú
Tài cũng cao hơn những trường khác.
Nhớ những buổi trưa từ trường về lua vội ba hột cơm
rồi hối hả vọt xuống Sài Gòn học thêm. Nắng gay gắt
như đổ lửa khiến mặt đường nhựa QL 13 hắt lên những dòng
không khí nóng loáng thoáng như
làn hơi nước. Kẻ ngồi trước gò người ghì chặt tay
lái mà mắt nhíu lại dưới vành nón,
cố vượt qua cung đường ngã tư Bình Phước, quán
Mèo Mun, đồng Chó Ngáp, cầu Bình Triệu… rồi
vào nội thành, hoà vào dòng xe cộ
hối hả xuôi ngược như đàn kiến khổng lồ. Thỉnh thoảng tất
cả đều phải nép sang một bên nhường đường cho những
đoàn công voa GMC mui phủ bạt trùm kín, phun
khói bụi mù trời…
Nhớ mùa hè Sài Gòn 1972
với những cơn mưa chiều dai dẳng, ngày đã tàn
mà đèn phố chưa lên; những ánh đèn
mà Trịnh Công Sơn gọi là “nắng khuya” trong
bài Chiều Một Mình Qua Phố, mình cùng
Quang, Lắm, Có bốn đứa vừa chạy vừa tránh từng vũng nước
to nhỏ đọng trên mặt đường, từ Lý Thái Tổ men theo
Yên Đỗ ra Hai Bà Trưng về ngã tư Phú
Nhuận, Quân y viện Cộng Hoà, thành Cổ Loa,
ngã tư Ga, cầu sắt xe lửa Phú Long… Về đến nhà
thì áo quần sũng nước, mười đầu ngón tay
móp hết; khi ấy thì với bản tính vô tư của
tuổi mới lớn, bọn mình nào biết đến sự bồn chồn lo lắng
của các đấng sinh thành, mãi đến sau này
khi trông ngóng con sau giờ tan học mới hiểu được
lòng cha mẹ.
Nhớ buổi sáng dừng xe trên đỉnh dốc cầu
Bình Triệu nhìn về hướng cư xá Thanh Đa, xa xa
là những bựng khói đen che kín cả một bầu trời,
nghe kháo kho xăng Nhà Bè bị đánh bom.
Chiến tranh không còn giới tuyến nữa mà đã
len vào đô thị, vào từng nhà người dân
miền Nam. Cuộc sống trở nên đầy bất trắc, lo âu cùng
với những bốt gác dã chiến xét hỏi giấy tờ mọc
lên bên đường. Năm 1972, Hiệp định Paris đang đi vào
giai đoạn cuối, các bên đều muốn giành thắng lợi
quân sự để chiếm ưu thế trên bàn họp nên cuộc
chiến thật khốc liệt, lệnh tổng động viên đặt dấu chấm hết cho
những học sinh học trễ tuổi theo quy định. Kỳ thi Tú Tài
chưa tới mà số phận kể như đã an bài. Kể cả những
sinh viên Văn khoa và Luật khoa năm hai, năm ba mang kiếng
cận dày cộp cũng vậy. Sau này, chiến trường Quảng Trị năm
1973 đã thu hút phần lớn số đó. Lớp 11 B5 cũng nằm
trong hoàn cảnh chung, sĩ số học sinh hao hụt đến nỗi mùa
tựu trường năm sau lớp phải bổ sung thêm gần phân nửa
là dân mới, những học sinh giỏi của các trường tư
thục trong tỉnh.
Nhìn lại quãng thời gian đã
qua, quả thực thời cắp sách đi học ở trường Trịnh Hoài
Đức thật đẹp. Chỉ biết học và vui chơi. Trong thời buổi nhiễu
nhương, bom đạn khói lửa, bọn mình như những người lữ
hành may mắn được náu mình vào ốc đảo
yên bình giữa sa mạc nóng bỏng. Dù
không thể nói là xã hội ấy không
có bất công nhưng chỉ nội việc tạo cơ hội “hoãn
dịch vì lý do học vấn” thì kể như số phận bọn
mình cũng được ưu ái hơn hàng trăm ngàn bạn
kém may khác rồi. Có ai thống kê số người
đồng trang lứa như bọn mình (sinh năm 1954) bao nhiêu
người đã nằm xuống, bao nhiêu người thành phế
nhân. Như lớp mình là Khiết, Đực, Đức, Hùng
Dũng, Thể, Hùng A, Hùng C, Thành, Sên…
Xét cho cùng họ có tội tình gì ? Rất
nhiều bạn trong số đó biết đến cây súng trước khi
biết thế nào là tình yêu. Và vĩnh
viễn như thế. Có lần không nhớ bạn nào đó
đã nói đùa: “Tuổi 54 chín nút
mà sao xui quá”. Nghe như có vị chua chát
làm sao!
(12- 2011)