Ở Việt Nam
không biết chính xác trò múa
lân được du nhập từ lúc nào, nhưng có thể
suy đoán, có lẽ là do chính từ những cộng
đồng người Trung Quốc sang sống ở nước ta đem theo. Đáng
nói thêm, cả nước ta, ở đâu cũng gọi con ấy
là con lân, là múa lân, chỉ
riêng tại Bình Dương xưa giờ, người ta cứ nói
là múa cù. Tại sao có cách gọi
khác biệt như thế là chuyện nay ít ai còn
biết.
Có một cách giải thích được
nhiều người tán thành, mặc dù cũng không
có gì để chứng minh cụ thể và chính
xác cho lắm. Thời trước, khoảng đầu thế kỷ hai mươi, tại
vùng chợ Thủ Dầu Một có một người rất giàu
và có thế lực tên là Trần Văn Lân.
Ngôi mộ ông nay vẫn còn ở phường Hiệp Thành,
chiếm một khu đất khá rộng trên một quả đồi với nhiều
cây rừng mọc lâu năm tạo ra một địa danh gọi là Mả
Ông Lân. Nơi đây đã được nhiều đoàn
phim chọn làm cảnh quay cho nhiều bộ phim khác nhau. Con
cháu ông Lân cũng là những người giàu
có nổi tiếng ở vùng chợ Thủ như ông Trần Văn Hổ
(Đốc phủ Đẩu), và một vài người họ Trần khác,
có thể cũng cùng tộc họ như ông Trần Công
Vàng, Trần Văn Tề, Trần Trung Hiếu… nay vẫn còn lưu lại
nhiều ngôi nhà cổ được xếp hạng công trình
kiến trúc văn hóa của tỉnh.
Mả Ông Lân (Bình Dương)
Chính vì tôn kính
ông Lân, người ta không nói múa
lân mà chuyển qua nói múa cù, theo
cách kỵ húy thông thường của người Việt thời
trước.
Cứ tạm chấp nhận cách giải thích như trên là
đúng thì vẫn chưa hết thắc mắc, vì sao không
dùng một từ nào khác mà lại chọn chữ
cù? Đó là việc ngẫu nhiên hay người xưa
đã có dụng ý khi thay thế lân bằng tên
của một con vật trong truyền thuyết dân gian Việt Nam?
Trong bộ từ điển chữ quốc ngữ xưa nhất nước ta
là Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (1895)
thì con cù là: “Loài rồng không sừng;
tục hiểu nó thường nằm dưới đất, chỗ nó dậy thành
sông.”
Về con cù này, nhà văn
Đoàn Giỏi, trong những năm sáu bảy mươi có viết
quyển “Những chuyện lạ về cá”. Trong sách này
ông có nhắc tới hiện tượng “cù dậy”, một
thành ngữ khá quen thuộc ở miền Nam. Ông có
trích dẫn nhiều bài báo của các tác
giả khác nhau ở miền Nam viết về hiện tượng này. Theo họ
thì có những con cá sấu tu luyện lâu năm
biến thành rồng, nằm ẩn mình trong đất sâu. Khi
trời mưa to gió lớn, sấm sét rung chuyển đất trời, rồng
sẽ tung mình bay lên mây, để lại nơi chỗ nó
nằm một cái hố to có thể dài đến vài chục
thước. Ông Đoàn Giỏi trưng dẫn tạp chí Bách
Khoa số 331 ngày 15 tháng 10 năm 1970, trong đó
có bài “Hiện tượng lạ cù dậy” của tác giả
Lê văn Hương, kể một số giai thoại về cù dậy ở miền
Tây xảy ra trong thế kỷ hai mươi, xin trích dẫn vài
chuyện:
1/ Cù dậy ở rạch Cẩm Sơn và rạch Sấu:
Cuối năm 1945 quân Pháp đánh lan
ra Sóc Trăng. Dân ở Kế Sách bỏ chạy qua sông
Bát Xắc vào xã Ninh Thới quận Tiểu Cần (Trà
Vinh) ở bên bờ rạch Cẩm Sơn, trong đất của ông Trương
Hoàng Lâu, tục gọi là ông Hàm
Lâu. Qua năm 1946 đến năm 1947, một hôm tháng 6 trời
mưa dầm, vào khoảng 4 giờ sáng bỗng nghe tiếng nổ ầm ầm.
Mọi người cứ tưởng Tây ném bom, sau mới biết là
tiếng động ở dưới đất, kéo dài hàng giờ. Ông
Hàm Lâu bảo dân chúng hãy rình
xem chỗ có tiếng nổ ở bãi xoài ven sông. Đến
5 giờ thình lình đất chuyển mạnh, dừa, ổi, xoài
trốc gốc đổ nhào. Mặt đất mở ra, một vật đen to bằng chiếc ghe
dài 30m bay vụt lên cao, biến trong mây. Ra đo chỗ
đất: lỗ sâu hơn 3 mét, ngang 2 mét, dài
khoảng 30 mét. Đó là Cù dậy.
2/ Rạch Sấu xã Nhân Mỹ, quận Kế Sách (Sóc
Trăng):
Cách tỉnh lỵ 25km. Tháng 07 năm 1969,
3 giờ sáng trời mưa. Nhiều người nghe có tiếng nổ cứ
tưởng bom Mỹ. Nhưng lại nghe động ở dưới đất. 5 giờ 30 sáng, đất
chuyển mạnh rồi thấy một vật đen thui từ dưới đất bay lên, hướng
về Bãi Giá Rạch Gòi mà bay ra biển. Xem
đất: Thấy hố sâu ở sau khu vườn dài 80 công đất. Ở
Mương Sìn hai căn nhà bay tung, tại Rạch Sấu đến Phụng
Tường nhà cửa xiêu vẹo. Ở sông Hậu, sóng cuốn
một ghe chìm, hai người chết đuối. Tổng cộng thiệt hại một vệt
dài trên 8 km, vườn tược, cây cối gãy đổ,
nhà cửa hư sập do cù dậy rất lớn. Xem lại cái hố
thì sâu 3 mét, rộng 2 mét, dài khoảng
30 mét. Dân địa phương khẳng định vệt đen từ vùng
đất bay lên, bay đi ấy là cù dậy sau khi đã
tu luyện thành công. Năm 1970 khi tác giả ấy viết
bài này cái hố đó vẫn chưa bị lấp”
Liên quan đến danh từ “Cù”, ở Qui Nhơn,
Bình Định, có một cái đèo tên
là Cù Mông, nằm trải dài từ An Khê đổ
ra biển, uốn lượn như một con rồng. Vì vậy tên xưa của
đèo này là Cù Mãng. Mãng
là con rắn thần, cù là linh vật đầu lân
mình rồng. Một tác giả đã giải thích sự
tích này như sau:
“Những khi thời tiết thay đổi, mưa gió
bão bùng nổi lên, thì dân địa phương
gọi là Cù dậy, bởi cả một vùng đầy sấm chớp, những
ngọn cây cong oằn trong màn mưa dày đặc tựa như cả
thân con linh vật chuyển mình; đặc biệt từ ngoài
biển ngó vào, những rìa đá lởm chởm, những
ngọn núi chạy dài tận mép nước hứng nhận những đợt
sóng tạt lên trông giống như đầu con rồng đang
há mõm hút nước vậy, mà đầu là từ
Bãi Bàng, Bãi Bầu, Bãi Sấu…
Ngày xa xưa, mảnh đất từ An Khê đến
Vân Canh đổ về phía La Hiên, Đa Lộc là nơi
có nhiều âm binh quấy phá dân lành,
phá hoại hoa màu, nhưng tệ hơn cả là có con
beo thần mình dài 8 thước, hai chân sau có
thể đứng thẳng và đi như con người. Con beo thần này
thường lén hút hết nước từ các sông suối đưa
lên tận Man Khê (An Khê?) khiến cho người dân
trong vùng không có nước tưới hoa màu,
gây hạn hán và đói kém triền
miên cho nhân dân cả một vùng rộng lớn. Những
ngày cầu đảo cúng tế đất trời kéo dài với
tiếng than khóc của những người dân cùng khổ khiến
thiên đình động lòng, bèn sai thần
làm mưa đưa con rắn xanh-Cù Mãng (có nhiệm
vụ coi sóc giếng nước thiên đình) xuống trần gian,
nằm phủ phục trên đỉnh Cù Mông để bắt con beo thần
và làm mưa cho vùng đất này. Beo thần bị
con Cù Mãng bắt đưa về trời sau cuộc chiến kéo
dài ròng rã mấy năm trời.Vì vậy,
hàng năm cứ vào tháng 9, tháng 10 âm
lịch là cả vùng đất Cù Mông mưa gió,
sấm chớp nổi lên đùng đùng mà người
dân gọi là cuộc huyết chiến giữa thần Cù
Mãng và Beo thần ngày trước.” (trích từ
internet)
Cũng tại Bình Định còn có một
ngọn núi tên là Xà Cù, xưa là
nơi hoang vu có nhiều loài trăn rắn lớn sinh sống,
vì vậy mà đặt tên là Xà. Còn
ghép chữ Cù, không hiểu có phải vì
niềm tin dân gian vào sự biến hóa của hai con vật
này hay không.
Tại Hội An có một ngôi chùa cổ
nổi tiếng gọi là chùa Cầu, do thương gia người Nhật
xây dựng vào thế kỷ 17 (có thể là năm 1617),
nên tên gọi ban đầu của nó là Nhật Bản Kiều.
Đến năm 1791, khi chúa Nguyễn Phước Chu tuần du đến đây
mới đặt cho cái tên mới là Lai Viễn Kiều.
Có một số truyền thuyết xoay quanh việc
xây dựng ngôi chùa này, cũng liên quan
đến con cù mà ta đang bàn:
“Ở cảng thị Hội An ngày xưa cộng đồng
người Việt, người Nhật, người Hoa có chung một truyền thuyết về
nguyên nhân gây ra động đất. Họ cho rằng ở
ngoài đại dương có một loài thuỷ quái
mà người Việt gọi là Con Cù, người Nhật gọi
là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long, đầu của
nó ở Nhật Bản, đuôi của nó ở Ấn Độ và lưng
của nó vắt qua khe ở Hội An mà cầu Nhật Bản bắc qua. Mỗi
khi con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước
Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để
người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm
ăn buôn bán.
Chùa Cầu ở Hội An
Để khống chế con Mamazu, người Nhật đã thờ
các Thần Khỉ và các Thần Chó trên hai
đầu cầu để " yểm " con thuỷ quái đó.
Những học giả của Trường Đại học Showa (Chiêu
Hoà) đã đến nghiên cứu ở Hội An tháng
9-1992, tháng 3-1993 và tháng 9-1993 đã
trao đổi với Ban Quản lý Di tích Hội An rằng những con
thú thờ trên cầu không phải là những con
thú bất kỳ mà là những vật linh theo tín
ngưỡng vật tổ của người Nhật.
Người ta cũng thấy rằng người Minh Hương lập
ngôi chùa nhỏ nằm sát cây cầu cổ để thờ Bắc
Đế Chân Võ (hay Huyền Thiên Đại Đế) cũng với mục
đích khống chế con Câu Long không gây ra động
đất.
(Nguyễn Phước Tương, Đôi Điều về Chùa
Cầu Hội An, http://chimvie3.free.fr/17/levanhao/lvhs058b.htm)
Một nhà nghiên cứu khác cũng
viết tương tự:
“Tục truyền xưa kia người Nhật qua đây
buôn bán cho rằng chỗ này là cái sống
lưng con Cù, một quái vật giống như con rồng, đầu ở tận
Ấn Độ và đuôi ở tận đất Phù Tang (Nhật Bản). Mỗi
lần nó quẫy đuôi là nước Nhật bị động đất dữ dội.
Vì thế họ cùng với người Việt, người Minh hương ở Hội An
cùng dựng lên cầu này coi như yểm thanh kiếm xuống
huyệt lưng con cù, mong trừ tai họa cho nhân dân
Nhật bản và dân chúng bản địa.”
(Nguyễn Q. Thắng, Quảng Nam, Đất Nước và
Nhân Vật, Nxb.Văn Hóa Thông Tin, 2001, tr.100)
Trong các sách biên khảo về đồng
bằng sông Cửu Long, nhà văn Sơn Nam cũng có
đôi lần nhắc đến cụm từ “cù dậy”, nhưng ông
không giải thích điều gì thêm, có lẽ
vì tác giả thấy chúng là thành ngữ
quá quen thuộc ở địa phương, không cần nói
dài dòng. Một nhà văn nổi tiếng khác
chuyên viết về phong tục đồng quê Nam Bộ là
Bình Nguyên Lộc, trong truyện ngắn Câu Dầm kể chuyện
con cù ở chợ Tân Uyên bên bờ sông Đồng
Nai, quê hương của chính tác giả, giúp ta
biết thêm một sự tích khác về cù dậy:
“Trong khu rừng cấm trước chợ lại có cặp
“cù” cũng tu lâu đời thành thần. Nhưng đó
là hai vị thần nhỏ, tướng của thần cá bóng.Thần
Cù rất hung ác, tham lam…
“À! Quên cái này, mấy
ông nói nhỏ cho nghe rằng Thần Cù là cặp
rắn, lớn mà ngắn, mồng đỏ, mỏ nhọn… hễ năm nào dân
làng không cúng hối lộ thì năm đó thế
nào cũng bị tai họa. Cái chợ hồi trước còn lợp
tranh, cứ vài năm lại cháy một lần. Đêm trước khi
cháy chợ, dân làng nghe bên rừng tiếng gầm
thét vang trời. Bởi vậy, hằng năm làng có lập
đàn làm chay trước chợ, để tế Thần Cù và
luôn tiện bố thí cô hồn, các đảng.
Mấy ông lại thuật rằng có lần kia, một
người câu xuồng, bỏ neo tại bến Trâu, núp dưới
bóng một cây nhông. Chỗ ấy rậm rạp, đi thuyền
trên sông không thấy được. Khi đương câu, anh
ta thấy giữa dòng sông nổi lên một con rùa
lớn bằng cái nia. Rùa ngó quanh quất rồi lặn xuống
liền, nửa giờ sau, người đi câu được mục kích một cảnh
tượng hết sức lạ lùng. Nơi mà con rùa hiện
lên hồi nãy, thấy có khói từ dưới nước bay
lên khắp mặt sông. Rồi từ từ nổi lên hai vị thần, một
vị nam, một vị nữ, ngồi đối diện trước một bàn thạch. Hai vị
thần này, đen hắc, đầu đội mão hình đuôi
cá, xiêm y rực rỡ những vảy cá ngũ sắc, những vỏ ốc
xa cừ. Xem kỹ lại thì thấy thần đương đánh cờ. Chừng
đâu được tàn một điếu thuốc bỗng nghe vị nữ thần
nói: “Ông nè, ở đây nghe như có hơi
phàm”. Vị nam thần bèn ngước lên, nhìn
quanh, dừng mắt lại phía xuồng câu, nhìn chăm chỉ
rồi châu mày, tỏ vẻ khó chịu. Người đi câu
còn hoảng sợ thì cả thần và bàn thạch đều
chìm một cách mau lẹ.
“Một lát sau, nơi khúc sông ấy,
máu trào lên nhuộm đỏ khói nước và
thây con rùa ban nãy nổi lềnh bềnh. Các
ông nói đó là một vụ trừng phạt tên
lính dọ đường không kỹ, để mắt tục dòm thấy cảnh
thân mật của thần.
“Tôi chặn ông Ba lại nói:
“Tích này tôi đã biết, người nào ở
Tân Uyên lại không rõ chuyện “Cặp Cá
Bóng tu dưới chùa Ông và chuyện Cặp
Cù gây cháy chợ”.
(Bình Nguyên Lộc, Câu Dầm, Cuốn Rún
Chưa Lìa, Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, nxb. Văn
Học, 2002, tr.988)
Múa cù ở Bình Dương
Tại xã Thạnh Mỹ Lợi, nay thuộc phường
Cát Lái, quận Thủ Đức trước đây có một
cái gò gọi là gò Cát vì
trên gò ấy có rất nhiều cát. Gò cũng
có nhiều cây quéo mọc, một loại xoài rừng,
trái chua và nhỏ hơn xoài trồng, nên
còn có tên là gò Quéo. Điều lạ
là mỗi khi dân địa phương đến đây đào lấy
cát tạo thành cái hố lớn, thì hôm sau
cát lấp đầy bằng phẳng trở lại. Gần đồi có một cái
trũng gọi là trũng Bứa, chắc do có nhiều cây bứa
mọc tại đây, một loại cây có trái màu
vàng, ăn được; lá non thì dùng làm
rau. Trũng này quanh năm lúc nào cũng có
nước, trong và ngọt. Người ta cho rằng đây là đầu
Cù. Quả đồi đó còn có tên là
đồi Cù Quéo. Sau năm 1975, khi có người lên
ở trên đồi, cát trên ấy từ từ biến mất, đồng thời
cát lại xuất hiện phía bên kia, nơi gọi là
gò Quéo trên, lấp kín bến nước ở doi
sông. Nay thì những điều trên không còn
lưu lại dấu vết gì nữa.
Qua các giai thoại về cù vừa kể, ta
không biết hình dạng con cù ra sao, ngoài
đặc điểm chung rằng nó là con vật nằm ẩn mình
trong đất, khi trời có mưa to gió lớn, nó
vùng mình bay vào không trung mất dạng, để
lại những hố đất sâu. Rất có thể, đó chỉ là
cách giải thích của dân gian cho những hiện tượng
sụp lỡ đất thường xảy ra ở những vùng ven sông nước,
mà thời xưa kiến thức về khoa học tự nhiên của họ chưa đủ
để hiểu hết. Giải thích hiện tượng cù dậy, bộ từ điển của
ông Huỳnh Tịnh Của cũng nói: “Cù đội đất mà
lên. Tục hiểu cù lao nổi cũng là tại cù dậy”
Ngày nay, ta không còn có
thể biết chính xác có phải người Thủ Dầu Một xưa,
đúng là vì kỵ húy ông Lân
mà gọi “cù” thay cho “lân” hay không. Dẫu sao
việc dùng tên một con vật huyền thoại của miền Nam,
có nhiều đặc tính tương tự như con lân của người
Tàu để thay thế cho nó cũng là lựa chọn khá
thông minh, hợp lý và phản ánh khuynh hướng
chung muốn Việt hóa những du nhập từ bên ngoài của
người Việt. Có thể vì sự hợp lý này
nên “Múa Cù” đã dễ được số đông chấp
nhận và trở thành tên gọi đặc trưng của dân
xứ Thủ Dầu Một từ thời ấy cho đến bây giờ.
(9/9/2011)