Chuyển mùa, khi hơi sương se lạnh, bạn
mình liên tục Alô: có tin báo hỷ, tập
trung nha. Và cũng có tin buồn: Alô chia sẻ với bạn
mình nhe. Chúng tôi, những cô học trò
nho nhỏ được các bạn nam sinh hồi đó gọi là mấy
Tiểu Thư khoá 13. Khoá ra trường năm 1974 mà Thầy
Cô đều ấn tượng gọi là khoá IBM (bạn nào
buồn, ráng chịu).
Năm ấy, lần đầu tiên sau 13 năm ra trường,
chúng tôi về lại mái trường thân yêu
xưa được hơn chục đứa. Vô cùng cám ơn Anh
Bình đã có công nối kết. Chúng
tôi chờ nhau trước cổng trường: “Ủa, bạn …. đó hả? Sao
phì nhiêu dzậy?. Đẹp …. lão dzữ nha, tóc bạc
hết trơn rồi”.
Lại ríu rít hồn nhiên mày
tao như hồi nảo hồi nao. “Sao rồi?. Có cháu nội ngoại
gì chưa?”. Kỷ niệm đầy ắp kể hoài không hết. Chuyện
học giỏi ngoan hiền ít nhắc tới. Chuyện xí xọn lại được
nhắc nhiều: bị thầy cô rầy, bị điểm 0 môn toán tới
26/50 học sinh cả lớp. Nhổ trộm củ sắn bị cô Hương kêu
lên văn phòng, Cô chưa rầy đã khóc.
Chuyện văn nghệ: làm đặc san Lớp, bích báo,
Nhóm Múa, hội trại Xuân. Những giờ học được nghỉ đi
chơi nhà bạn Ngọc Tuyết. Lúc nào cũng được
Bác Sáu gái dọn cơm cho ăn, rồi ra gốc mận ngồi ăn
mận chấm nước mắm đường. Sao vui, sao ngon quá là ngon.
Chuyện đi xe ngựa đến nhà bạn Ngọc Ánh ở Bà Lụa.
Má bạn đãi một bữa cà tím nướng nhớ đời
ngon hết biết….
Mùa mưa, chúng tôi đi bộ
trên đường đất đỏ từ quốc lộ 13 vô trường Nữ. Học
trò nhỏ - áo dài trắng - mang guốc thuyền sơn đen
quai trắng, trong cặp táp phải có mấy cây đinh
đóng
guốc, phòng khi đứt quai. Mùa mưa, áo dài
trắng thành áo dài hoa lấm bùn là
chuyện thường ngày có gì mà mắc cỡ.
Bài thơ “Chiếc Áo Dài Bông” viết trên
tường trường nữ ngày đó, giờ đã quên rồi.
Còn chuyện bây giờ mới kể: tìm
bạn bốn phương, những bức thư trong hộc bàn nếu kể ra
thì: “mua vui cũng được một vài ...”.
Nhớ ơi là nhớ chuyện học trò.
Có chuyện bạn này tưởng quên được bạn khác
nhắc lại. Chuyện hồi đó mà cứ như là cổ
tích. Rồi bạn ở nơi xa: Thuỷ, Loan, Hạnh ở Úc về,
và lại có cơ hội đoàn tụ rồi.
Bạn Mộng Hoài ở CaLi mong tìm lại bạn
cũ. May quá, có anh Huỳnh Xuân Khai nối nhịp cầu
vui. Thế là alô, gửi hình về coi còn đẹp
gái thì gả chồng cho. Vui đến các đấng phu
quân cũng vui theo và ngạc nhiên: “Sao mấy bà
dzui dzữ vậy?”.
Bạn đồng môn bảy năm nên hoài
niệm nhiều ơi là nhiều. Còn các bạn khác
giờ ở tận đâu?. Cuộc đời có được như mơ ước? Vẫn
tìm, vẫn mong tin bạn và mong nhận hồi âm.
Ôn cố
Năm đầu:
Trường Nữ THĐ năm 1967 có 2 lớp đệ thất nữ
là P1 (Pháp Văn) lớp A2 (Anh Văn). Sau đó
có thêm lớp A3. Lớp tôi có đến 7 bạn
tên Tuyết và 1 bạn tên Phước thì hơi
lùn, vì vậy các thầy hay gọi lớp tôi
là “7 Bạch Tuyết, 1 chú lùn”. Thầy Huỳnh Ngọc Anh
vào lớp vừa mở nón xong nói: “Lấy tạp ra đạp”,
“Repeat after me”. Thầy phì cười khi chúng tôi cũng
lặp lại “Repeat after me” (mà thường xuyên lặp lại vậy
đó). Thầy Phán Giám Thị rầy rà:
“Chém cha không bằng pha tiếng”.
Thương ơi là thương Thầy Bình dạy Vẽ
chìu chuộng học trò hết biết. Cô Hiếu dạy Nữ
Công tha hồ cho mấy chị trổ tài. Thầy Nguyễn Nhật Duật dạy
Việt Văn mà mỗi lần nhớ thầy đều tiếc nuối. Sao không tiếp
thu kho tàng văn học của thầy được một tí tì ti
nào, cứ líu ríu: “Thầy ơi không hiểu”. Thầy
an ủi: “Lớn lên sẽ hiểu”. Lớn lên và cần hiểu,
thì có còn thầy đâu mà hỏi?.
Thầy Bùi Thế San dạy Vạn Vật. Thầy là
“Papa” của chúng tôi rất nhiều năm, nên cũng
phát huy được một chút phong trào văn nghệ.
Làm sao quên được những ca khúc vượt thời gian
mà thầy từng hát: Mộng Dưới Hoa, Dư Âm, Ngậm
Ngùi, Suối Mơ, Tiễn Em ……
Trường Nữ năm đó, lớp tôi có một
giờ học nhạc với thầy Bé Tám. Nhưng thầy nghỉ. Giờ học
đó, lớp tôi tiếp những vị khách lạ rồi nhận những
tờ màu hồng, xanh, vàng bằng giấy pelure giấu trong ống
tay áo dài. Cờ được kéo lên cột cờ phất
phới. Sau sự kiện đó, chúng tôi được chuyển qua học
bên trường Nam và học buổi chiều. Chúng tôi
có những anh chị “hộc tủ” buổi sáng. Sau nầy mấy bạn chỉ
cho: “Anh Thiện hồi đó viết thư bỏ trong hộc bàn cho
mình đó”. Có người chị kết nghĩa Yến Châu
vừa học giỏi vừa hiền. Tết đến chị còn gửi thiệp chúc
xuân chúc các em học giỏi, sau nầy mới biết chị học
cùng lớp với chị Đinh Thúy. Không kể cũng biết: một
bạn viết thơ nhưng có tới hơn một chục bạn làm đạo diễn:
“Phải viết dzầy nè…...”. Trường mời phó nhòm chụp
hình cho chúng tôi hình trắng đen. Bạn
nào cũng nhỏ xíu xinh xinh (đính kèm)
Năm đệ lục:
Làm sao kể hết những niềm vui. Năm đó
đến giờ Lý Hoá của thầy Bùi Lý Hồng, bạn
mình gọi giờ Lý Hoá là giờ hồi hộp. Thầy
có thể gọi trả bài bất chợt. Một hôm thầy giở danh
sách lớp. Chúng tôi đang hồi hộp hộp hồi. Thầy hỏi:
“Em nào hay ăn quà nhất lớp?”. Sợ quá, chỉ chỏ:
“Bạn H. đấy”. H. bị gọi đứng dậy. Thầy móc tiền trong túi
ra: “Đi mua củ đậu giúp thầy”. Hết hồn.
Cô Nghiêm Thuý Liễu dạy Sử Địa
luôn khuyến khích học trò thuộc bài bằng
phần thưởng là những quyển sách hình, nhìn
thấy đã mê mẩn (sách nước ngoài mà).
Môn đó chăm học ơi là chăm.
Cô Nga dạy Toán cho điểm 0 : 26/ 50 em.
Thiệt đáng đời, môn Toán mà. Nhờ vậy
các bạn siêng hơn một tí. Thầy Bình dạy vẽ
khuyến khích chúng tôi vẽ theo bìa
Báo Tuổi Ngọc, Tuổi Hoa. Lúc chấm điểm, thầy hỏi: “Sao
nhiều em giống nhau thế” (“cọp dê” ấy mà).
Năm lớp 8:
Năm đó không còn ghi trong học
bạ chữ Đệ ngũ, mà viết là Lớp 8.
Một năm học qua quá nhanh với bao nhiêu
là niềm vui. Cô Hoàng Thị Đàn Hội với chiếc
áo dài màu tím Huế, giọng nói như
chim hót, dạy môn Sử Địa. Nghe riết giọng Huế của Cô
mà ghiền.
Thầy Bùi Thế San dạy Vạn Vật, phong
trào văn nghệ tưng bừng. Giờ học của thầy, bạn nào
cũng được thầy khuyến khích hát để thầy được nghe giọng
hát học trò. Ca sĩ hát trên đài
chuyên nghiệp làm sao bằng các em hát.
Làm sao quên được những lời thơ qua tiếng nhạc. Cảm nhận
học trò hồi đó sao thiết tha:
…. Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng…..
…. Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu
muôn tiếng tơ…..
…..Nắng chia nửa bãi chiều rồi vườn hoang trinh nữ xếp đôi
lá rầu….
…..Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi…….
… Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế….
Và cũng thật bất giờ khi Bạn Lương Thị Lễ
Minh học giỏi nhất lớp hát bài Clementime bằng tiếng Anh
điệu nghệ…..
Năm đó, tôi được thầy Bé
Tám đào tạo song ca bài “Trường tôi” với hoa
khôi Trịnh Hoài: Nguyễn Thị Mỹ Linh. (xem hình).
Vào dịp lễ cuối năm, chúng tôi
múa bài “Cành Hoa Trắng”. Nhóm múa
gồm 7 bạn: Tuyết Phan, Giang Mỹ, Nguyệt Hồng, Nhung, Phụng Loan, Mỹ
Hạnh, Mỹ Linh (ngồi giữa). Tuyết Phan là đạo diễn. Năm đó
chúng tôi chụp hình với cô Hà Thị
Liên dạy Anh văn. Học trò cứ len lén ngắm cô
mà mơ ước: lớn lên giống Cô mặc áo dài
không cổ màu xanh thiên thanh, mang giày
‘bit’. Không làm sao quên được vẻ đẹp xinh tươi hồn
nhiên quý phái của cô.
Chuyện bây giờ mới kể: Giờ Toán của
thầy Đặng Văn Danh. Trường Nữ có Phòng Giáo Sư ở
trên lầu một. Bạn X. ở lớp A1 đã bóp khoá
nhốt thầy bên trong. Hai lớp bị rầy mà lớp tôi
thì bị hàm oan. Ai cũng biết là bạn X., nhưng đến
giờ vẫn nhất quyết thề không khai báo (nhất quỷ,
nhì ma, thứ ba là con gái).
Năm lớp 9:
Chúng tôi học ở Trường Nữ. Lớp
tôi bắt đầu có những thành tựu ở những bài
báo tường. Chúng tôi ra đặc san “Dưới Mắt Học
Trò”. Báo in ở nhà sách Khai Trí của
Thầy San. Thầy Đoàn Phế đã vui vẻ khuyến khích
và chỉnh sửa bài viết của chúng tôi.
Hình bìa đặc san Dưới Mắt Học Trò
Biết bao nhiêu là chuyện hậu trường
quanh đặc san. Thầy Đinh Đức Vượng đã dành riêng cả
buổi cho chúng tôi thảo luận cái tên đặc
san. Nhiều ý kiến ý cò.
Thầy cà rỡn: “Thì giản dị thôi: tên là
“Ăn Uống Ngủ”. Dzậy mà bí quá, cả bọn ồn
ào: “Theo ý của thầy đi”. May quá, Thầy Phế
đã gỡ rối cho lớp, để bây giờ bao nhiêu bạn đọc lại
bồi hổi bồi hồi: “Hồi nhỏ mình cũng giỏi dzữ hén?”.
Cuối năm, nhóm múa diễn bài
Mùa Hoa Anh Đào với 4 bạn: Phụng Loan, Thẩm Mỹ, Lại
Tuyết, Nhung. Chúng tôi không tập múa ở
trường mà tập ở hang Đức Mẹ ở Nhà Thờ Lái
Thiêu. Giờ nhớ lại, bạn nói: “Sao quởn dzậy nhỉ?” .
Trong năm nầy, tôi vẫn tiếp tục viết
bài cho đặc san Xuân của Trường, tham gia đi bán
báo trường, học đàn với thầy Bé Tám, dự
các hội trại của Trường. Cũng bày đặt ghi bút danh
cho bạn bình loạn lung tung. Dù sao cũng một thời
áo trắng.
Lớp 10:
Nhiều dấu ấn cùng thầy bạn. Bắt đầu điệu
điệu. Lại được cô Hương Giám Thị quan tâm cho đi dự
các chương trình của trường vì các chị lớp
11, 12 phải thi Tú Tài 1, Tú Tài 2. Thầy
Lê Vĩnh Thọ dạy Việt Văn. Nhà thầy toàn là
sách, nhiều hơn cả thư viện của trường. Cô Nguyễn Thị
Xuân dạy Anh Văn. Cô dạy hát rất nhiều bài:
Dola dola, Silent night….. Thầy Võ Kim Lân dạy Pháp
Văn với một chuyện cười bằng câu: “Fémine et masculin?”,
hoặc “Vỏ cá bự lại rẻ” từ chữ vocabulaire. Thầy Gởi dạy Vạn Vật
với chữ ký giống hệt hàng rào kẽm gai dài
ngoằng. Thầy Đình đạo mạo. Thầy Em dạy môn Công
Dân. Học trò ví von thầy giống lính
dù rằn ri hơn thầy giáo. Lúc thầy bị tai nạn giao
thông ở Cầu Bà Hên, học trò líu
ríu đi thăm ở Bệnh viện Bình Dương mới có cảm
tưởng thân thiện với thầy.
Lớp 11:
Chúng tôi qua trường Nam học, đã
được gọi là tiểu thư và nhiều bạn đã nhận được thư
(gửi bằng phi tiêu bay) :
Có phải em mang trong áo bay
Hai phần gió thổi một phần mây,
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thổi cho làn áo trắng bay.
(Thơ Nguyên Sa)
Tuổi ô mai mới lớn kỷ niệm nào cũng
quá ngọt ngào. Tình hình thời sự bên
ngoài càng dữ dội, chúng tôi càng
quý mến nhau. Năm đó, chúng tôi mỗi đứa diện
một bộ đồ trắng đi diễu hành. Đi đầu là chị Ngọc Liễu
nên đứa nào cũng biết chị.
Chúng tôi đọc Vòng Tay Học
Trò của Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, đọc Buồn Ơi Bắt
Tay của Fr. Sagan, đọc Doctor Zivago, Chiến Tranh Hoà
Bình, Cuốn Theo Chiều Gió, tiểu thuyết của Quỳnh Dao ….
với kỳ vọng sau nầy thành đại ... văn hào.
Năm đó báo Xuân của Trường
có bài viết của tôi với lời khen của thầy Lê
Vĩnh Thọ và thầy Phước, Phó Hiệu Trưởng.
Thầy Phan Huy Đạt dạy Sử Địa đã đem lại cho
chúng tôi thật nhiều kiến thức về lịch sử.
Chúng tôi quý mến thầy,
quý hơn nhiều nhiều vì thầy là em trai của
bà Phan Lệ Thanh, người đã dịch tác phẩm Love
Story.
Thầy Võ Kim Lân là giáo
sư hướng dẫn lớp. Thầy nhiệt tình đem thư từ văn phòng
cho mấy đứa không có tên trong danh sách lớp.
Mỗi khi thầy kêu Ngọc Minh có thư, là rất nhiều bạn
phì cười. Tội cái “ông” đứng trước cổng trường chờ
gặp Ngọc Minh mà không hề biết Ngọc Minh là một
nhóm, nên văn hay chữ tốt quá chừng chừng.
Một chuyện làm đau lòng bạn Võ
Hồng và bạn Thanh Thuỷ. Giờ học của thầy Hào dạy Anh Văn.
Buổi chiều u ám ấy, chúng tôi về trễ. Hai bạn bị
mất trộm hai chiếc Honda Dame mới tinh. Thời buổi ấy, chiếc xe
đó có giá trị lớn, là niềm mơ ước của rất
nhiều người. Ngày hôm sau, một nhóm bạn đi Vũng
Tàu, nghỉ ở nhà thầy Lê Bích, hiệu trưởng
trường Nghĩa Phương. Thầy Lộc hiệu trưởng trường Trịnh Haoì Đức
cùng Thầy Bích đi nghỉ ở khách sạn, nhường
nhà cho học trò cưng. Bạn Út nói:
“Mình đi chơi vui, bạn mình thì buồn” .
Năm cuối:
Thầy Phúc dạy Triết học. “Thầy ơi …
không hiểu gì hết”. Thầy an ủi: “Thầy còn chưa
hiểu hết, lớn lên các em sẽ hiểu”. Một nhóm rủ
rê đi học thêm Anh Văn. Thầy Hào dạy ở nhà
Thầy Anh đường Bạch Đằng. Môn Lý Hoá học với Thầy
Phạm Ngọc Em ở trường Nguyễn Trãi. Thầy ơi, trò học dở
là có tội nhiều lắm với người thầy đã đem hết
tâm huyết ra giảng dạy cho trò. Rồi một nhóm lại
bon chen xuống trường Văn Học ở Sài Gòn học Triết với
thầy Trần Bích Lan (nhà thơ Nguyên Sa). Trường lớp
ngột ngạt chật chội. Thầy kể hết chuyện phiếm nầy đến chuyện phiếm
khác chẳng liên quan gì đến Triết học, mà
học trò vẫn ngủ ngon. Thầy tự trào, có công
“tôi ru em ngủ”, “mộng vẫn bình thường”.
Chúng tôi học tiếp năm cuối với thầy
Phan Huy Đạt dạy Địa Lý. Quý thầy nhiều hơn khi thầy
trò cùng làm Báo Xuân Trịnh
hoài Đức năm 1974. Bây giờ tôi vẫn nhớ mình
đã làm thơ trên sân cỏ Trịnh Hoài với
nắng vàng dưới gót chân. Nhưng giấc mơ làm
nhà văn, nhà thơ…. thẩn của tôi vĩnh viễn chia ly
ngậm ngùi với tôi sau bài thơ lãng mạn đến
nỗi tôi bị ăn đòn của cha tôi năm ấy.
Xuân đến, trường tổ chức Hội Tết. Thầy Mẹo, giáo
viên chủ nhiệm, giúp chúng tôi xây dựng
khu trò chơi. Lớp tôi lo trang hoàng, nhưng con
gái mà…. Trại chúng tôi hoa lá
cành đủ kiểu và vui mắt nên được bằng Tưởng Lục của
trường. Tôi lên nhận bằng khen từ thầy Hiệu Trưởng Nguyễn
Văn Hộ. Có một bạn bày tỏ niềm vui trên bảng trắng
“Vương quốc A2 giành giựt giải nhất”. Bây giờ mình
nghĩ lại, chỉ có Phụng Loan là hay nghịch nhất nhưng bạn
nói quên hết rồi.
Rồi chúng tôi viết lưu bút chia tay. Bạn Thu
Hà vẫn giữ còn như mới, đọc lại giống hệt tuồng cải lương
cũng mùi thấy thương… Phía sau tấm hình lưu niệm
nhất định phải là câu: “Dù cho ảnh có phai
màu, xin đừng xé bỏ mà đau lòng người”.
Ôi kỷ niệm sao mà ...
Một niềm vui lớn trong năm học năm học cuối
cùng của tôi là được nhận phần thưởng an ủi do
trường tặng. Tôi chụp mấy tấm hình nhưng không
rõ mặt các Thầy và quan khách đến dự.
Thêm một kỷ niệm với thầy Phan Huy Đạt khi học
ở Trường Đại Học Văn Khoa. Tôi cùng
thầy và các em khoá sau làm đặc san
Xuân 1975. Tôi nhớ hoài câu Thầy nói:
“Hành trang của Thầy chỉ có một valy đựng sách”.
Mùa xuân, mùa vui tươi,
mùa hội ngộ. Tôi sợ sẽ rớt rơi hết những kỷ niệm trường
lớp nên xin ghi lại những kỷ niệm xưa để nhớ về khối tình
trường, lớp, bạn bè, và để hãnh diện khoe
cùng con cháu: Trịnh Hoài Đức là ngôi
trường mà tôi đã học ./.