Trung Học Trịnh Hoài Đức
Vùng Kỷ Niệm!

Nguyên Thảo


Con người ta lớn lên thường có những mơ ước! Trong cuộc đời tôi cũng có mơ ước, mơ ước đó mà tôi đã ôm ấp nó trong nhiều năm của thời thơ ấu, gần như trong những năm đầu tôi chẳng hề phai. Tới cuối cùng thấy mình chỉ là mơ ước thôi, nên tôi đành lặng im bằng lòng với những gì mình đang có được! Điều ấy tôi đã viết trong bài “Ước mơ: Về Trường Trịnh Hoài Đức!”.

Quả thật, tôi mơ ước quá nhiều về ngôi trường Trung học Công lập đầu tiên của Tỉnh Bình Dương lúc bấy giờ. Ngôi trường mang tên một Danh Nhân: “Trịnh Hoài Đức”. Ngôi trường ấy đã là ước mơ của tôi không phải vì tính cách khang trang, dãy lớp học lầu hay cảnh cánh đồng lao xao sóng lúa xung quanh của nó, mà chính nó là trường Công lập: Vào học được khỏi tốn tiền! Mỗi năm khỏi phải tốn tiền của cha mẹ với một số tiền cũng khá nhiều, thì cha mẹ tôi có thể cho tôi đi học được lâu hơn mà không phải bẩn chật về vấn đề tài chánh. Nhưng tôi đã không hoàn thành được ước mơ của mình ngay từ thuở ban đầu, dù khi còn ở Lớp Nhất trường Tiểu học Tân Phước Khánh tôi đã là một học sinh thuộc loại “Rất khá” trong lớp. Tôi “rớt” đi trong sự buồn lòng của mình cũng như sự tiếc nuối của thầy cô, nhất là Cô Vũ Thị Hồng Ngọc, người Cô trẻ đẹp gốc Bắc đã dạy chúng tôi trong lớp Nhất đầu tiên của trường năm ấy!



Sau đó, nhiều chúng tôi không có tiền để nhảy ra học ở trường tư như trường Nguyễn Trải, An Mỹ hay Trí Đức gì đó chẳng hạn. Thế là chúng tôi cứ “rúc” theo những lớp tiếp liên hay xin học lại ở lớp nhất cũ. Đến khi hay tin trường An Mỹ tư có thể được biến thành Công lập thì chúng tôi cũng xin cha mẹ được “bấm bụng” để xin chuyển về học ở trường An Mỹ trong một thời gian mà “chờ thời”! Tuy nhiên thời đã không đến và gần như mỗi người đều có “duyên phận”, tôi và một số bạn bè cùng nhau cuốn gói lên một quận hơi hẽo lánh gần “chiến khu D” để gia nhập lớp “đội ngũ đầu tiên” của một trường Trung Học mới mở: Đó là Trường công lập Phước Thành của một tỉnh mới được thành lập, ấy là Tỉnh Phước Thành!

Trong những năm đầu, tôi vẫn ao ước cuối năm xin chuyển về Trường Trịnh Hoài Đức; nhưng chỉ hoài công! Từ đó tôi không còn mơ ước hão huyền nữa, và cứ kéo lê như vậy thêm hai năm sau. Rồi ngày thi Trung Học Đệ nhất Cấp qua đi! Trường Phước Thành không có mở lớp Đệ Tam, trường sẵn sàng chuyển học sinh đi về những trường nào mà học sinh thích. Bấy giờ tôi lại không dám về trường Trung học Trịnh Hoài Đức, vì trình độ của mình không khá lắm, sợ về ở đó mình sẽ thua kém bạn bè cho nên cuối cùng phải chọn về trường An Mỹ, dù sao ở đây tôi vẫn là một thành viên của lớp đầu đàn, tôi không phải dấn thân với những bạn bè “gạo cội”; vả lại, An Mỹ vẫn gần với xã Tân Phước Khánh của tôi hơn là An Thạnh (Búng). Với trường An Mỹ tôi có nhiều điều kiện “thoải máy và rỗi rảnh”! Cũng may, trong thời gian nầy tôi rơi vào hoàn cảnh bi đát của mình, nhưng tôi còn có cơ hội để tiếp tục theo đuổi sự học; chứ nếu tôi về trường Trịnh Hoài Đức chắc tôi đã bỏ cuộc tự lâu rồi! Điều ấy cho tôi đôi lúc suy nghĩ về “số phận” của con người (hay của mình) trong cuộc đời!

Nhưng rồi, tôi vẫn được về Trường Trịnh Hoài Đức ở năm sau cùng vì trường An Mỹ thuở ấy không mở lớp Đệ Nhất (tức lớp 12 sau nầy). Sự an ủi trong mơ ước của tôi được trở thành hiện thực! Một năm học tích tụ mơ ước của tôi trong sáu năm trời dài đăng đẳng. Dù thật ngắn ngủi, nhưng nó cũng đem lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm từ bạn bè cho đến thầy cô. Từ một Thái Văn Bạn pha trò hay nói bậy một cách duyên dáng; một Nguyễn Ngọc Cẩn, Ngô Trọng Hải giỏi tất cả các bộ môn, nên chẳng trách chi tụi nó khi đi thi đậu hạng “Tối Ưu” trong khi bao nhiêu bạn bè chỉ cần đậu thường thôi cũng được. Một Nguyễn Thành Tri bị Thầy Nguyễn Vũ Hải làm cho một trận không biết phải xử lý thế nào? Một Lê Minh Văn từ Lái Thiêu lên thường hay đọc thơ mình thơ người như một thi sĩ cao hứng, nhưng có lúc nỗi nóng “rượt” Nguyễn Văn Hải chạy khắp sân trường. Ở đây tôi gặp lại hai người bạn cũ chia tay từ trường Trung học Phước Thành là Trần Tấn Lực, Nguyễn Ngọc Thạch để rồi thằng Thạch vẫn là Thạch “A”, và tôi cũng mãi là Thạch ”B”. Bạn bè thì nhiều lắm, nhưng người tôi nhớ nhứt có lẽ là Từ Văn Nhung, vì tôi với nó là hai kẻ bị Thầy Vũ Hải “dợt” cho một câu ngay trong buổi học đầu tiên của lớp; sau năm ấy tụi tôi tứ tán thỉnh thoảng gặp nhau vài “tay”. Ngày tôi còn học trong trường Quốc gia Sư Phạm Sài gòn, thì có một lần Nhung sang chơi với bạn bè cũ khi đó Từ Văn Nhung đang học bên trường Đại Học Sư Phạm thì phải, rồi sau đó bao nhiêu năm không còn gặp nhau nữa cho đến bây giờ. Cuộc đời có nhiều cái cũng hay: Bao nhiêu đứa từ nơi xa tụ họp về chung một lớp, một trường để rồi sau đó đi muôn phương mà lâu lắm chưa có lần gặp lại như “mây họp rồi tan”!

Còn về Thầy Cô thì nhiều, nhiều lắm: Cô Kim Hưng dạy Vạn Vật với thuật nhớ những dây Thần Kinh xương sống, rồi đột nhiên Cô từ giã trường để đi đến nơi khác; thầy Trí Lục lên thay với thí dụ “nằm ngữa ăn trái chuối”. Thầy Trần Văn Hải dạy Anh Văn với ba bài hát “Tạm Biệt” tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh; thầy Nguyễn Huy với những câu chuyện ngoài lề Sử Địa; thầy Ngọc Em với “con léc” (con lắc) “léc qua léc lại” mà quần của thầy dính đầy phấn sau mỗi tiết học; thầy Quang Tuấn dạy Lý thế thầy Em có lần nỗi giận với tôi vì quan điểm xã hội của tôi mà đã “đề cập Karl Marx nói..” mặc dù thuở ấy tôi chẳng biết chủ nghĩa Công sản là gì?. Một thầy Nguyễn Văn Phúc đẹp trai, dạy Triết khá hay đi qua đi lại như một con thoi suốt trong tiết dạy, phải nói kiến thức của tôi sau nầy có nhiều ảnh hưởng từ các bài dạy ấy mặc dù thuở ấy tôi học chẳng nhớ được là bao nhiêu. Một thầy Tăng Huyên linh hoạt dạy Công dân cứ muốn được dạy bên trường nữ. Một thầy Phó Đức (hay Bá?) Long hay chắc lưỡi mỗi khi lớp ồn không chịu nghe giảng bài nhưng có một nụ cười “duyên dáng và đáng yêu”. Một thầy Nguyễn Ngọc Thạch dạy Pháp Văn từ Phú Giáo chuyển về đuổi một học sinh lớp Đệ Tam ngỗ nghịch nào đó mà gặp tai họa sau đó với những người lính địa phương (sau nầy nghe nói thầy là Tác giả của bài thơ “Đừng kể Bắc, đừng kể nam…” mà Nguyễn Đức Quang, nhạc sĩ du ca, đã phổ nhạc; và thầy cũng chính là “Tư Trời Biển” của một tờ báo nào đó ở Sài gòn trước 30/4/75. Với thầy lớp chúng tôi tập hát bài “Xuân Ca” của Phạm Duy vào dịp gần Tết, nhưng có bạn lại kháo nhau: “Thầy Thạch chắc khoái cô Xuân nên cho mình hát bài Xuân Ca đó!”, nhưng đó chỉ là lời kháo nhau, chứ chưa phải là sự thật, mà cũng có thể là sự thật mà chỉ có thầy Thạch mới biết mà thôi! Có ông Thầy số một mà không ai có thể quên: Ấy là thầy Vũ Hải, Nguyễn Vũ Hải. Thầy dạy rất hay nhưng cũng rất ư là nghiêm khắc. Học trò vừa sợ mà cũng vừa nễ thầy, nhưng đến lúc nghe được thầy tâm sự, cả lớp chúng tôi đều mũi lòng; không ngờ trong con người lý trí của thầy cũng có những giai đoạn tình cảm đến thế ư? Vì thế mà từ giây phút ấy đến về sau lớp chúng tôi rất là hiểu thầy! Không biết lớp khác có đồng cảm ứng với lớp chúng tôi không? Nhưng đó là sự “hiểu” của chúng tôi đối với thầy Vũ Hải…Ôi! Những kỷ niệm trường lớp không thể quên mặc dù tôi chỉ có được vỏn vẹn chỉ một năm ở ngôi trường mà tôi đã mơ ước gần suốt giai đoạn học trò của mình.

Nói đến kỷ niệm của những năm sau cùng trong thời học sinh ở nơi ngôi trường Trịnh Hoài Đức, tôi cũng không thể quên những kỷ niệm hằn sâu vào tâm trí, đó là nơi ở trọ: Chùa Phước Tường! Với ngôi chùa ở xóm Lò rèn của xứ Búng, tôi đã làm quen với những người em đáng mến từ xứ Phú Hòa Đông (Bến Cỏ) ngày nào: Nguyễn Hữu Lịnh, Lê Thị Niềm và Lê Thị Hồng ngoài ông bạn vai thứ “Bác” của tôi là Bùi Văn Cõi. Chúng tôi là những người vui buồn có nhau trong một khoảng thời gian không nhiều (3 tháng) đối với tôi. Nhưng chúng không thể ra ngoài ký ức của tôi, nhất là những lúc chúng tôi quay quần bên ngọn đèn học trên một bàn dài; hoặc những lúc tôi chỉ “dọng” chuông cho Lịnh tụng Kinh Vu Lan Bồn mà Lịnh rất đắc ý mỗi lần lên chánh điện công phu thế cho Cô Ba, khi thầy Trụ Trì đi vắng. Thắm thoát mà đã khoảng 45 năm rồi đó còn gì! Thời gian qua quá mau phải không các bạn?

Vì tuổi trong giấy tờ của tôi không đủ để thi vào các ngành nên tôi đành lang thang trên ngưỡng cửa Đại học một năm. Một năm thi vào trường nghề trể hơn các bạn! Và với một năm đó tôi học cũng chỉ là hoài công: Vì sau hai lần biến cố tôi không còn nhớ được nhiều, trí óc tồi tệ hơn. Vào lớp với những suy nghĩ cơm áo gạo tiền và nơi trọ. Cuộc đời lênh đênh nơi chốn đông người trong những khu nhà ổ chuột và xóm lao động bình dân! Nhưng rồi một năm cũng qua đi!
Sau hai năm hoàn tất trong trường Sư Phạm Sài Gòn, tôi đi về quận Dầu Tiếng xa xôi để bắt đầu cho nghề nghiệp của mình. Hai năm ấy cũng tràn đầy kỷ niệm nơi xứ “đi dễ khó về” vì “mủ cao su”, nhưng cũng may là tôi chẳng bị dính mủ mà lại vấn vương tiếng ve sầu kêu nơi vườn cao su của những buổi trưa hè. Ở đây tôi cũng trải lòng mình trên những dòng thơ! Những dòng thơ ấy ngày tôi đi vượt biển đã để lại ở nhà và chúng sau nầy cũng biền biệt ra đi. Tôi bắt đầu làm thơ để vui chơi có lẽ là lúc ở chung với Niềm, Hồng và Lịnh tức là năm Đệ Nhất. Tôi cũng không ngờ đến những năm sau nầy tôi lại làm nhiều bài thơ như tôi đã làm, bởi vì:

Tôi chỉ là một người làm thơ tài tử
Viết để chơi và chỉ trải lòng mình
Viết ghi đời với cuộc sống lung linh
Để thiên hạ xem qua cho biết!

Cho nên thơ của tôi mang tính hiện thực, hay văn của tôi cũng mang tính cách xã hội giống như khuynh hướng xã hội mà tôi đã có từ khi còn nhỏ. Đối tượng của tôi là xã hội, tôi phải mỗ xẻ vạch trần xã hội để người đọc có được một chút ít nào đó sau khi đã đọc thơ hay văn của tôi. Chúng có phần đả phá nhưng cũng có nhiều bài để xây dựng. Tôi muốn đóng góp cho một cuộc đời được tốt và đẹp hơn trong một xã hội vật chất và đầy cám dỗ ở thời đại ngày nay. Nhưng đó chỉ là “Ước mơ” thôi!

Vào năm 73, khi thầy Nguyễn Văn Phúc rời trường Trịnh Hoài Đức để lên làm Chánh Sở, tôi cùng một số bạn bè được đi tu huấn để về được “chuyển cấp” lên dạy ở trường Trung học. Tôi lại được bổ nhiệm về lại Trường Trịnh Hoài Đức để dạy Sử Địa Đệ Nhất Cấp (tức cấp 2) bây giờ. Những kỷ niệm ngày xưa và những kỷ niệm mới quyện lên nhau. Duyên của tôi trước kia với trường Trịnh Hoài Đức thật ngắn ngủi, nhưng sau nầy cũng kéo dài thêm được hai năm nữa. Trong thời gian nầy ngoài những bạn bè cùng cấp tôi còn có thêm những bạn mới như Hồng Lĩnh, Chung Hữu Tâm, thầy Đào, thầy Mẹo, thầy Lộc, thầy Phước, thầy Thọ, thầy Kiệt, thầy Thiện Thuật, Bé Tám…Và các cô Nho, Chánh, Mai, Xuân, cô Lý, cô Dung...Nhưng có lẽ năm mà chúng tôi phải rời trường cấp III An Thạnh để trở về trường cấp II An Thạnh mà cơ sở là trường Trịnh Hoài Đức nữ cũ. Ở đây đồng hội đồng thuyền, đồng cam cộng khổ trong giai đoạn hăng hái nhưng đầy gian nan nhất của thời kỳ sau ngày đất nước thống nhất. Biết bao nhiêu kỷ niệm không thể nào nhớ hết để ghi lại mà trong đó các thầy lớp trước như Thầy Quý, thầy Kiệt, thầy Bé Tám, hoặc lớp chúng tôi như Hữu Tâm, Bửu, Chánh, Là, Phúc, Phước, Vĩnh Khánh, Công, Thế, Quang, Tiểu Nam… Và bên nữ là Cô Minh, Dung, Cúc, Điệp, Chánh, vợ Tiểu Nam hình như Tuyết thì phải, Loan, cô Hữu Hiếu… mà tôi không tài nào nhớ tên hết. Và cũng ở đây, trong thời gian nầy tôi đã học được rất nhiều bài học để đưa vào ký ức của một thời: “Một thời đầy kỷ niệm”, thế thôi! Năm sau tôi phải rời bạn bè để về với trường Bình Chuẩn để hai năm sau tôi phải trôi nỗi thêm ở một số trường rồi mới về trường của làng cũ quê xưa như “Lá rụng về cội” cho đến một ngày của năm 83: “Ấy là ngày tôi rời gia đình và ra khơi!” và từ giả luôn nghề nghiệp xưa cũ như là hết ân oán, nợ nần!

Nguyên Thảo,
19/12/10.