CÁCH ĂN TẾT
CỦA NGƯỜI BÌNH DƯƠNG XƯA
HOÀNG ANH
(07-12-2010)
Người An Nam mình thường nói “Ăn Tết”, chứ không
nói chơi Tết hay thưởng thức Tết, và “ăn” không
phải một ngày mà kéo lê thê nhiều
ngày, như vậy, Tết với dân ta là mùa, chứ
không phải chỉ một đôi bữa. Nay có người ăn học văn
minh, chê người Việt ta ăn tết dài quá, lãng
phí quá. Mà ăn vậy mới vui chứ! Ngó lại
mà coi đi, làm lụng cực khổ bù đầu quanh năm suốt
tháng, Tết ăn có một hai bữa thì thắm tháp
nỗi gì!
Mùa Tết có thể coi như khởi sự từ ngày 12
tháng chạp, bữa đó cúng tổ thợ may. Lúc
này cứ đôi lát lại nghe pháo nổ đì
đùng xa xa như báo động cho mọi người biết rằng Tết lại
một lần nữa sắp trở về đó nghen. Chợ búa đã bắt
đầu nhộn nhịp hơn trước, và lòng mọi người có vẻ
cũng chộn rộn hơn, nhất là sắp nhỏ, cứ theo nèo nẹo
đòi quần áo mới. Tiếp đến, 20 là ngày
cúng tổ thợ mộc, thợ sơn mài, thợ giày…Các
nghề khác, thực ra không biết tổ mình là ai,
cúng cho đúng là ngày nào, cứ canh
hai ngày này mà hè nhau cúng. Nghề
sơn mài và đồ gốm một năm cúng hai lần, lần đầu
vào ngày 13 tháng 6, cúng nhỏ hơn lần sau,
ngày 20 tháng chạp.Ông tổ nghề sơn mài Việt
Nam nghe truyền lại là ông Trần Thượng Công, người
làng Bình Vọng, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông, sống đời Lê Nhân Tông (1443-1460).Vua sai
ông đi sứ sang Trung Quốc, khi qua đến tỉnh Hồ Nam, học được nghề
sơn, sau về nước xin vua mở trường chỉ dạy lại cho dân ở tỉnh
Phú Thọ, Bắc Việt.Từ chỗ này, người này chỉ người
kia, học lóm người nọ, riết mà rồi nghề sơn mài
nay mới đặng lan truyền ra cả nước.
Thập niên 80, 90 là thời vàng son của ngành
sơn mài trên vùng Tương Bình Hiệp, Tân
An…Vào đêm 20, dường như nhà nào cũng
cúng. Đi dạo trong xóm, thấy trước nhà ai cũng
có bàn nhang đèn, bông trái,
gà hay vịt luộc…Có người còn cúng cặp
gà, một trống một mái. Gà mái thì
kiếm mua luôn cả ổ gà đang đẻ, luộc luôn trứng bởi
tin là biểu tượng của gà đẻ trứng vàng, làm
ăn phát đạt. Cúng tổ phải đợi giữa khuya, như cúng
giao thừa. Nhưng từ lúc mới đầu hôm bọn thợ đã
bày ra nhậu lai rai. Tới giờ thì người nào người
nấy đã say ngất ngưởng, trong lúc pháo nổ ran cả
đêm, khói toả mù mịt như có sương phủ khắp
xóm làng, toả mùi thơm ngào ngạt. Đi
chân nam đá chân xiêu ngoài đường,
có cảm giác bềnh bồng như lạc giữa thiên cung,
lòng ngập tràn hạnh phúc sau một năm làm ăn
mệt nhọc mà phát đạt.
Ngày 23, đưa ông Táo, có câu “Hăm ba
đưa ông Táo, hăm sáu đưa học trò”.
Cúng ông Táo có chè xôi nước,
giấy tàu bay ngựa chạy, “cá chép” đốt để ông
Táo cởi về Trời, có các loại bánh kẹo chỉ
bán vào dịp tết, gọi là “thèo lèo
cứt chuột”. Đây cũng là lúc sửa sang lại bếp
lò. Mấy cái bếp lò cũ đem ra để ở mấy gốc
cây bự ở chỗ vắng vẻ như cây đa, cây bời
lời.Lâu ngày, mấy cái gốc cây đó lũ
khủ nào ông địa nhe răng cười, nào bếp cũ nằm chỏng
chơ, đi ngang mấy chỗ đó phải bước cho thiệt lẹ vì nghe
lạnh sau ót. Ở quê, người ta lựa chỗ sạch sẽ đào
đất sét lên, trộn với rơm nặn thành ba cục đất
tượng trưng cho ba ông bà táo, lấy làm
chân bếp lò. Không có điều kiện tự làm
thì đi mua, người bán các cục đất ông
Táo, cùng với “mực tàu giấy đỏ”, ngồi lác
đác ở bên lề các con đường dẫn vào chợ. Đối
với trẻ con, nhất là trẻ khó nuôi, vào trưa
ngày 23 những năm ba, sáu, chín, và mười
hai tuổi là phải cúng để tạ ơn ông Táo
đã phù hộ cho con được khoẻ mạnh, khôn lớn.Năm 12
tuổi cúng lần cuối nên cúng lớn, phải có đầu
heo. Về tục thờ ba ông bà Táo, sách xưa giải
thích:
“Lại thờ thần Táo quân (vua bếp) hai bên vẽ hai
hình đàn ông, ở giữa vẽ hình người
đàn bà, cũng là theo quẻ Ly là hoả, trong
hai hào dương lấy một hào âm làm chủ”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông
chí, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 142)
Với người có đạo Công giáo, trước ngày lễ
các Thánh 1-11 phải đi dẩy mả, để đến sáng sớm
ngày 2 là lễ các Đẳng, tới nghĩa trang có
ông Cha làm lễ, người ta cắm bông huệ trắng, đốt
đèn cầy trắng trên mả, nhang khói nghi ngút
hương thơm trong sương mai lạnh lẽo. Có nơi, người ta đến rất
đông từ đầu hôm đốt đèn cho tới sáng, cả
nghĩa trang được thắp đèn lung linh rực rỡ, đẹp như ngày
hội hoa đăng Người Tàu thì dẩy mả trong tiết Thanh Minh,
từ mồng 3 đến mùng 10 tháng 3. Dịp này làm
cỏ sạch sẽ và đắp thêm đất, lại mang theo nhang
đèn, trầu cau, bông, trái cây, giấy tiền
vàng bạc, rượu thịt…Cúng xong, giấy tiền vàng bạc
của họ đủ màu, bay theo gió nằm vương rải trên mấy
cái gò mả, trông thấy đẹp mà sao nghe cũng
buồn buồn, cứ như có hồn người chết về lảng vảng đâu
đây.
Người Việt mình dẩy mả trong những ngày cuối tháng
chạp, đi đông nhất là ngày 25. Bà con tụ lại
cùng dẩy mả ông bà sạch sẽ để ông bà
cũng ăn Tết như cháu con. Đem theo đồ cúng, dẩy xong
xúm lại ngồi ăn rao ráo cho ông bà vui, thấy
con cháu thuận hoà, hiếu thảo. Nhiều người cùng đi
dẩy mả, xong đốt cỏ khô, khói bốc nơi này một
đám, nơi kia một đám, đẹp mà vui, như ngày
đốt rạ trên đồng cuối mùa gặt. Cái vui hiền
hoà, giản dị của một thời, nay bầy trẻ không còn
cảm được. Ngày dẩy mả, tuy đổ mồ hôi hột, nhưng lắng đọng
trong lòng người nhiều tình cảm khó phai, mỗi khi
nhớ đến cứ nghe bùi ngùi. Có mấy ông
nhà văn, hay chữ nghĩa, nói như vầy, nghe mấy ổng
nói mà nhớ xưa chịu không thấu:
“Ngày tạm biệt Bàu Bèo đã trở nên xa
ngái.Thỉnh thoảng tôi lại về quê vào dịp tết
để giẫy mộ ông bà vào những ngày cuối năm,
đến đình đến miếu khấn vài nén nhang mới hay
quê mình cũng đã nhiều nhang khói.”
(Lưu Thành Tựu, Đồng Bàu Bèo, Kỷ yếu 20 năm văn
học nghệ thuật Bình Dương (1986-2006), nxb Trẻ, 2007, tr.879)
“Kế đến, ăn Tết là dẩy mả.Đạo thờ cúng Ông
Bà gồm tưởng nhớ, thờ cúng và dẩy mả ngày
Thanh Minh và ngày Tết, ông Sáu đã
theo cha dẩy mả từ thưở ông lên bảy và cứ như vậy
đến năm ông hai tám, cha ông qua đời, ông đi
dẩy mả một mình tới ngày chạy giặc là năm
ông ba lăm.
Ông đã gần gũi tổ tiên ông mỗi năm hai lần,
nghe thương mến người dưới các nấm đất ở đầu làng lắm,
mà đã hai mươi năm rồi, ông không được dảy mả
nữa.”
(Bình Nguyên Lộc,Hai người xuống tinh thần,tạp chí
Hương Quê, tr.23)
Tục lệ dẩy mả này có từ đời tổ tiên, sách cũ
còn ghi chép rành rành:
“Ở Gia Định, cứ đến cuối năm thì tế, quét dọn bồi đắp
phần mộ tổ tiên, việc ấy đã có điển lệ của
nhà nước.Thiết nghĩ gần đến ngày tết, đầu năm nhà
ai cũng còn sắm sửa chỉnh đốn, huống chi là con
cháu thì người chết cũng như lúc còn sống,
sao nở ngồi nhìn cỏ cây rậm bẩn, mồ mả sụt lở, mà
không sửa đắp lại ư? Tuy việc tế mộ, cổ lễ không có,
nhưng lễ bởi nghĩa mà sinh ra, so với Trung Hoa ngày
thanh minh tế tảo mộ, thì nước ta tế về tháng Chạp
còn có nghĩa hơn.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 146)
Lo mồ mả xong là đến phiên lo nhà cửa, dọn dẹp, lau
chùi, sơn phết từ trong ra ngoài. Nhà có lư
đồng thì phải chùi lư cho bóng láng,
mà chùi cho nó láng thì mỏi
rã hết hai tay nên bọn trẻ rất ngán công việc
này.
“Tục cứ đến cuối năm may áo mới, đẹp, quét rửa sạch trong
nhà ngoài sân, dán câu đối mới,
bày bàn ghế, sửa soạn chỗ thờ cúng tổ tiên,
có thứ gì bày ra hết để khoe với nhau, răn bảo con
em, phàm việc gì phải cẩn thận, để bói xem điềm
triệu trong một năm.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 143)
Cánh đàn bà thì lo cắt lá chuối, xay
bột, đem phơi, lúc này nắng mỗi ngày một ấm hơn,
vàng hơn, các nia bột trắng tinh như được ươm nắng, nằm
óng ả đầy trước sân nhà.Lại còn lo
làm bánh mứt, đủ thứ trên đời, tới khuya lắt khuya
lơ vẫn chưa đi ngủ, lẫn trong mùi thơm ngào ngạt của
đường mật,của mùi gừng cay cay là tiếng cười nói
khúc khích của mấy bà mấy cô tới gần
sáng mới dứt.
Một vài cách vui Tết thưở xưa, chỉ còn đọc thấy
trong sử sách:
“Ở Nông Nại (tức Đồng Nai), đến cuối năm, vào đêm 28
tháng chạp, có na nhân (tục danh Nậu Sắc
Bùa) đánh trống mọi, gõ bản phách, mười lăm
người làm một bọn, đi dong khắp phố, xóm, nhà
nào hào phú thì đẩy cửa mà
vào, dán bùa vào các cửa, niệm đọc
thần chú, trống phách, tiếp đến lời hát
chúc mừng.Chủ nhà lập tức đem cỗ bàn chè
rượu thết đãi, và phong tiền thưởng tạ.Lại đi đến
nhà khác cũng như thế, đến trừ tịch (30 tết).Cũng
là ý đuổi tà tống ma, bỏ năm cũ đón năm mới
vậy.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 143)
Ngày 30 dựng nêu, nhưng nay cũng ít ai
làm.Câu ca dao: “Cu kêu ba tiếng cu kêu. Mong
cho tết đến dựng nêu ăn chè” chỉ là câu của
hoài niệm.
“Ngày trừ tịch, mọi nhà đều trồng nêu tre ở trước
cửa lớn, trên buộc cái sọt bằng tre, trong để trầu cau
và vôi, bên cạnh treo giấy vàng bạc, gọi
là trồng nêu.Sự tích tường tận từ trước thế
nào, không thể khảo cứu được mà cái thuyết
ba giới chia trị, là thuyết hoang đường, không nên
theo
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 143)
Trưa 30, cúng rước ông bà về nhà ăn tết với
cháu con.Lúc này gần như mọi người đã ngừng
công việc làm ăn, có thể thảnh thơi ngồi nhậu lai
rai, nghe tiếng pháo nổ đì đùng lác
đác trong xóm. Chợ búa chỉ còn sót
vài người nghèo ráng ngồi bán kiếm tiền,
ngoài đường vắng vẻ, xe cộ lưa thưa.
Chiều 30, cúng rước ông Táo. Trước cửa nhà
dán hai tờ giấy vuông màu đỏ năm nào cũng
phải mua mới, một vẻ hình con cọp, một vẻ lá bùa,
dân gian có người gọi bùa niêu. Có vị
cao niên giải thích hình con cọp này như sau:
“Thật ra, dán hình con cọp trước cửa là phong tục
của người Tàu do tích trong truyện Phong Thần; Triệu
Công Minh theo Triệt giáo, cởi cọp cầm Giáng Ma Chử
trị ma quỷ ra trận đấu với 12 vị tiên của Xiển giáo học
trò của Ngươn Thuỷ thiên tôn, đứng đầu là
Nhiên Đăng đại sư nhưng bị mất mạng.Sau được Phong Thần trị ma
quỷ.
Thông Thiên Thánh Mẩu và Ngươn Thuỷ là
học trò của . . . Lão Tử vì hiểu lầm nhau do
Thân Công Báo đặt điều nên sanh chuyện.
Người ta dán con cọp là tại như vậy.”
Chiều 30 cũng là lúc bắt đầu nấu bánh tét
bánh ít.Bánh lâu chín nên phải
đốt bằng mấy khúc củi to, thường lựa mấy cái cù
lự, khó bửa để dành sẵn, lửa bập bùng tí
tách cả đêm, nước trong nồi cứ sôi ùng ục.
“Nhiều thứ lắm, bà không biết nói ra.
À…ở…thí dụ như lửa tết, lửa đêm ba mươi nấu
bánh tét, quanh lò lửa lớn ấy có mặt
đông đủ cả nhà, ai đi mần ăn xa ở đâu, cũng phải về,
đông đủ cả nhà mà đôi khi đông đủ cả họ
nữa, vì có những bà con nghèo, không
gia đình, không nhà cửa, họ xin hưởng ké sự
ấm cúng của bất cứ người nào trong họ mà có
được một bếp lửa.
-Còn thứ gì nữa bà ngoại ?
-Còn lu bù thứ.Cả nhà họp mặt đông đủ
thì vui, nấu nướng suốt đêm các món ăn ngon,
kể cho nhau nghe chuyện mần ăn của mình ở xa, nhắc lại chuyện ăn
Tết ngày xưa của ông bà tổ tiên.Đêm
cuối năm gió lạnh lắm, mà quây quần quanh bếp lửa,
ấm ghê đi. Nhà có nhúm lửa, nghe như
là sung túc, mà nhúm những bếp lửa lớn,
nghe càng sung túc hơn. Đó rồi thì
ngày mai lại,lửa cháy trong bếp suốt ba ngày
đêm, không được hạ ngọn phút nào hết, cho
nó vui.Ở làng, người ta cất nhà lớn, nhưng cả
nhà đều ở sau bếp, không phải sợ nhà trên
mòn mà không dám ở, mà vì
nhà bếp vui hơn, mà vui hơn là nhờ lửa.”
(Bình Nguyên Lộc, Lửa Tết, tuyển tập BNL, II, nxb. Văn Học
2001, tr.968)
Những năm gần đây cấm đốt pháo, đêm giao thừa, đi
trên đoạn đường dài từ Bến Cát về đến Lộc Ninh,
Bù Đốp…ta thấy hai bên đường có rất nhiều đống lửa
cháy bập bùng trong bóng tối, củi nổ tí
tách, tạo cảm giác ấm cúng và gợi nhớ
nét cổ sơ của thời đi khẩn đất.
Đêm ba mươi, đón giao thừa, thời khắc thiêng
liêng nhất trong năm.Trên trang và ngoài
bàn thiên thắp đèn sáng trưng hơn mọi khi,
nhà khá giả còn đốt trầm, hương bay thơm
ngát. Bông trái cũng nhiều và đẹp hơn, xưa,
dĩa trái cây còn phải có dưa hấu và
đường phổi. Đoạn văn sau đây, trích từ truyện ngắn “Một
thảm kịch ở thôn quê” mô tả cho ta biết rõ hơn
về loại đường này (đăng lần đầu trên tạp chí Hương
Quê, sau có tên là Bảo Mật, trong tập truyện
Thầm Lặng của Bình Nguyên Lộc):
“Các bạn có biết đường phổi là gì
không?Nhiều bạn trẻ chưa bao giờ thấy mặt miếng đường kỳ lạ ấy,
vì trong những năm chiến tranh, Bình Thới không
có điều kiện bán ra ngoài thổ sản của mình.
Đường phổi không phải là đường.Thật ra nó chỉ
là một thứ quà ngọt chế tạo bằng đường cát trắng,
tròng trắng trứng gà và một vài chất
khác mà nhà nghề giữ kín cho đến mãi
ngày nay.
Miếng đường phổi mang hình dạng một lá phổi mà
bên trong, nó cũng có hang, lỗ y như phổi người.
Đó là một lễ phẩm, người dân Đồng Nai dùng
cúng tổ tiên ngày Tết.
Thành phần hoá học của đường phổi, và cách
chế tạo nó, những nhà nghề trên ấy thọ lãnh
của tổ tiên ngoài Quảng Ngãi, Quảng nam khi bỏ
làng di cư vào Đồng Nai, cách đây trên
ba trăm năm.”
(Bình Nguyên Lộc, Bảo mật, tuyển tập BNL, II, nxb. Văn Học
2001, tr.183)
Đón giao thừa phải cúng vái ngoài
sân, ở bàn Thiên, tức bàn Thông
Thiên, một bàn thờ đơn sơ, nơi thờ một vị quan nhỏ gọi
là Thiên Quan, một dạng “sứ giả” của cõi Trời
nên thường có dán một tấm liễn nhỏ ghi:
“Thiên quan tứ phước” ý là xin vị quan này
ban phước cho gia đình.Dân gian thường nghĩ rằng
Thiên tức là Trời, tức Ngọc Hoàng Thượng Đế, vua
của Thiên Đình. Ngẫm nghĩ, lẽ nào vị vua tối cao
như thế lại để ông chịu đựng nắng cháy mưa dầm cả năm
ròng ngoài sân như vậy, chắc là không
phải!
Bắt đầu từ sáng mùng một là phải kiêng cữ đủ
thứ, vì vậy đến ngày ba mươi là mọi việc sửa soạn
trong nhà ngoài sân phải rán lo cho xong hết
ráo.Gạo phải đầy khạp, nước phải đầy lu vì ba
ngày Tết không được động tới giếng.Sân phải
quét dọn sạch sẽ vì Tết không được quét, sợ
quét luôn ông Thần Tài, tiền ra hết khỏi
nhà thì khổ.
Đêm trừ tịch, tới đúng thời khắc giao thừa, pháo
rền vang khắp nơi.Những năm tháng chiến tranh, lính
tráng còn bắn súng hay trái sáng
lên trời, biết nguy hiểm nhưng nhiều người thích ra
sân đứng xem cảnh tượng ngoạn mục trên bầu trời đen đang
được thắp sáng rực rỡ bởi muôn màu sắc. Ai
hên thì lượm được mấy cái dù, nhưng thế
nào rồi cũng có người chết hay bị thương vì đầu
dạn rơi xuống mà cũng chẳng ai ngán, vui mà,
dân Việt mình lúc nào lại chẳng gan dạ
cùng mình!
Đốt pháo mừng xuân là tục đã lâu
đời, gắn liền với đời sống cư dân nông nghiệp mấy trăm năm:
“Đốt nhiều pháo; lại có thứ pháo bằng ống đồng,
ống sắt, tiếng kêu dậy cả rừng núi, kêu ran
không dứt”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 144)
Danh sĩ Trịnh Hoài Đức giải thích cho tập tục này:
“ Xét ý nghĩa thì cũng như ở Trung Quốc
ngày mồng một tết dùng pháo và bùa
gỗ đào, ngày Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5) cắm
lá ngải, lá xương bồ v.v…, là lấy ý nghĩa
tiêu biểu cho năm mới, trừ bỏ cái xấu cho năm cũ mà
thôi”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 143)
Chờ cho tiếng pháo trong xóm làng thưa thớt dần,
người ta mới đi ngủ. Sáng ra, chưa kịp mở con mắt đã lại
nghe tiếng pháo mừng năm mới râm ran trong xóm,
báo cho biết ngày Tết chờ đợi cả năm ròng, chuẩn
bị mệt đừ cả nửa tháng nay đã chính thức tới.
Mùng một, xưa có tục xông đất, tức người hợp tuổi
với gia chủ sẽ đến sớm để là người đầu tiên mừng tuổi
chúc Tết chủ nhà.Nay ai cũng cử không dám
đến nhà ai sớm, sợ chẳng may năm đó họ gặp điều xui xẻo
thì mình lãnh đủ. Đàn bà có
thai hoặc nhà có tang trong năm thì tuyệt đối
không dám đi đâu trong ngày này.
Sáng dậy thay đồ mới, đến thắp nhang cúng tổ tiên
trước tủ thờ sáng rực ánh đèn. Trên
mấy cây cột gỗ trước bàn thờ có dán những tờ
giấy đỏ viết chữ Tàu, hoặc là câu đối, hoặc
các chữ như Tân Xuân Vạn Hạnh, Ngũ Phước Lâm
Môn…Lạy ở bàn thờ xong, con cháu đến khoanh tay
chúc Tết mừng tuổi ông bà, cha mẹ, nhận tiền
lì xì. Những nghi thức này trải qua mấy trăm năm
không thay đổi bao nhiêu:
“Mồng một tết, đầu giờ dần, dậy đốt đèn hương, dâng nước
chè nóng, lễ bái tổ tiên, rồi đến mừng tuổi
người tôn trưởng, chúc cho sang năm mới giàu
và sống lâu, làm cỗ bàn đặt cúng
tiên tổ, mỗi ngày sang chiều hai buổi, như để cung phụng
người còn sống.”
Xét ra cúng ngày mồng một tết, tuy trong
sách lễ không có, nhưng việc đó cũng
là tụt hậu, không hại gì đến nghĩa lý. Kẻ sĩ
phu kính tuân điển lễ của nước, tuỳ theo chức phận phải
làm, kính cẩn tuân hành, không
nên tự tiện đổi bỏ. Trừ ra tuân theo điều kiện điển lễ
nên làm thì không kể, còn như việc
nào trái lễ, như tục truyền là ngày mồng 3
nhà quan tống tiễn tổ, nhà thường dân không
nên cúng tiễn vào ngày ấy để tránh
cho tiên tổ ở dưới âm, hoặc có bị đòi bắt,
đài tải vật công chăng, vì thế để chậm đến
ngày mồng 5 tháng 7 cũng có, mà mỗi
ngày thì lấy món cũ dâng cúng; việc
ấy hồ đồ quái đả, khinh nhàm việc tế lễ, nên theo
điển lễ nhà nước ngày mồng 5 cúng tiễn là
phải. Phàm gặp những việc ngoa truyền trái lễ như thế,
nên tham chước lễ nghĩa mà đổi đi.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 144)
“Ngày mồng một tết cúng tổ tiên, có người
bầy cỗ cây mía, cũng là loại quả phẩm thức ăn, tục
có người ngoa truyền là để cúng tổ tiên,
làm gậy cho người già chống, đến nỗi có người ngu
viết vào văn khấn, rất là sai bậy, đáng cười”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 145)
“Ngày mồng một tết, người sang hèn lớn nhỏ đều
cùng no say rong chơi, tuy là người thôn quê
mùa hèn hạ cũng có lễ phép khả quan.Từ
ngày trồng nêu trở đi, nhà nào cũng
đánh bạc và làm các trò chơi,
pháp luật không cấm, đến ngày hạ nêu
thì thôi.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 145)
Nhà văn Bình Nguyên Lộc cho ta biết thêm
cách đón Tết của vùng Đồng Nai xưa:
“Ngày đầu năm, người nào trong gia đình cũng xẻ
thử một trái dưa hấu, xem nó có thật đỏ
lòng, mặt lòng dưa có xam xảm cát hay
không? Để đoán tương lai tổng quát của họ trong năm”
(Bình Nguyên Lộc, Gói hột dưa bí mật, tạp
chí Hương Quê, tr.26)
Thời trước, nhất là nhà nghèo, hay lấy vỏ dưa hấu
để làm gỏi, chỉ vạt bỏ lớp vỏ xanh bên ngoài
thôi.Gỏi vỏ dưa giòn, ăn nghe thâm trầm lắm, bầy trẻ
trào bầy giờ sung sướng có đứa nào chịu động
móng tay mà làm nữa đâu.
Lúc này ngày ba bữa cúng cơm ông
bà, cúng xong cả gia đình mới ngồi ăn chung với
nhau.Ngại đến nhà người khác sớm thì kéo đi
chùa lạy Phật, xin xăm, hái lộc; hoặc đi thăm mồ mả, thắp
nén nhan khấn vái.Con cháu ở xa dắt díu chở
nhau về thăm ông bà cha mẹ, tiếng cười tiếng nói
mừng vui vang rân trong xóm.
Mùng 2, hết phần lễ lạt, thoải mái rồi, hôm nay tha
hồ thăm viếng, ăn nhậu, đánh bài, coi cải lương thả cửa
trên vô tuyến truyền hình.Gặp nhau người ta
chào hỏi, người có ăn học huê dạng thì
nói “Cung Chúc Tân Xuân” chứ có ai
mà bắt chước tiếng tây tiếng u nói “Happy New Year”
búa xua như đời bây giờ. Dọc đường, người ta túm
tụm quanh các sòng bài bạc, bầu cua cá cọp
hay tài xỉu. Những người khác đi hối hả thành
dòng trên đường, nhìn là biết liền họ
kéo nhau đến rạp hát xem cải lương hay chớp bóng
chớ chẳng có chạy đâu.
Mùng 3, “mùng ba tết thầy”, cũng là ngày
đưa ông bà, lại phải cúng, làm
tiệc.Có mâm cúng ở bàn Thiên, giếng
nước, chuồng trâu bò, heo, gà…và phải
dán giấy tiền vàng bạc mấy chỗ đó nữa, dán
cả lên mấy gốc cây lớn xung quanh nhà, mấy cây
mai già trước sân cũng dán hết trọi trơn:
“Hôm mùng ba Tết, tới nhà chủ lò để dự
đêm cúng Thần Đất Đai, chủ lò đã sai anh đem
bùa dán vào Che”
(Bình Nguyên Lộc, Thần Che báo oán, tạp
chí Hương Quê, tr. 23)
Gặp nhau trong ngày này, người ta thường thở than, mau
quá, mới đó mà đã qua ba ngày
Tết.Những ngày vui trôi qua cái vèo, sắp đến
sẽ là những ngày nắng cháy, khô hạn,
công việc năm mới chưa biết sẽ ra sao, nghĩ tới cái cảnh
phải tiếp tục đi cày kiếm cơm mà ngao ngán!
Mùng bốn, hết tết rồi nhưng chưa hết hẳn, ai đi làm, cứ
đi, ai còn rảnh thì còn chơi tiếp, đến thăm những
người thân quen mà mấy ngày qua chưa thăm được,
hoặc đi coi ngày khởi công, coi sao hạn trong năm
mới.Mùng bảy hạ niêu, hồi nẳm, phải mãi đến
ngày này thì Tết mới thực sự kết thúc.
“Ngày mồng 7 hạ nêu xuống, gọi hạ nêu.Phàm
công nợ vay mượn còn thiếu lại, nội trong ngày tết
không được đòi hỏi, phải đợi ngày hạ nêu rồi
mới được đòi hỏi.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 144)
Mùng 8 cúng sao hội, nhiều người vào cúng
lạy trong chùa, kẻ khác bày cúng trước
sân.Phàm người nào cúng sao gì phải
sắp đèn cầy theo hình của sao đó. Ai sao tốt
còn bỏ qua, chứ đụng “nam La Hầu nữ Kế Đô” thì đố
mà dám, phải lo cúng cho đàng hoàng
tử tế. Mùng 9 cúng Trời, tức “Ngọc Hoàng Thượng
Đế”, ngày này là ngày vía,
cúng ở bàn Thiên. Miền Bắc ít nhà
có bàn thiên, ngoài Huế mỗi nhà lại
có đến hai bàn thiên, thường đặt bên
hông sân, quay hướng ngược với cửa nhà. Ở
Bình Dương thì bàn thiên đặt ngay trước giữa
sân và nhìn trực diện vào cửa chánh,
lại thường trồng các loại bông trang, bông mồng
gà…xung quanh để làm cảnh, người khá giả lại
làm hòn non bộ, coi ngộ lắm!
Mùng mười cúng đất, tức Ông Địa, ông
này và ông Thần Tài thường để dưới đất, thờ
chung trong một cái trang nhỏ. Người Hoa rất trân trọng
hai ông này nên bày trí trang thờ rất
đẹp, thắp đèn sáng choang, màu sắc đỏ tươi.
Cúng ông Địa và ông Thần Tài, đặc biệt
là giới buôn bán, mỗi sáng sớm đều van
vái cầu xin phù hộ để buôn may bán đắt, lễ
cúng khá qua loa, một bình bông, nhan
đèn, ly nước, thêm ly cà phê hay điếu thuốc
tuỳ mỗi người. Thần tài, có thuyết cho rằng là
ông Triệu Công Minh, một người dân ở núi
Võ Đang bên Tàu.Thuyết khác, cho là
một cô gái Tàu có tên là Như
Nguyện. Xưa, có người lái buôn tên là
Âu Minh khi đi thuyền qua hồ Thanh Thảo gặp cô đem về
nuôi trong nhà như một cô hầu. Từ đó
làm ăn buôn bán ngày càng phát
đạt, trở nên giàu có. Một hôm vào Tết
Nguyên đán, ông nóng giận đánh Như
Nguyện làm cô sợ chui vào đống rác trốn mất.
Kể từ đó, người chủ làm ăn ngày càng lụn
bại, trở nên nghèo khổ. Người ta cho rằng Như Nguyện
chính là Thần Tài, và vì sự
tích này nên có tục kiêng cữ
quét rác và hốt rác trong ba ngày
Tết, sợ Thần Tài đi mất Cũng vì tích này
mà trang thờ Thần Tài luôn đặt dưới đất, nơi
góc nhà hay hàng hiên. Người ta cũng thờ
chung ông với thần khác như Ông Địa. Ngoài
hai bức tượng còn có một bài vị viết bằng chữ
Tàu. Thần Thổ Địa còn gọi đầy đủ là Môn Khẩu
Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: thần Thổ Địa trực ở cổng để
đón Thần tài vô nhà.
Chợ Bình Dương xưa
Ngày 13, xưa có lễ cúng, nay bỏ đã
lâu:
“Phàm các thứ quả, mứt, bánh, hết thảy các
món ăn dàn bày rất nhiều, đến ngày 13
thì tống thần, gọi là đệ tiễn, đồ cúng thì
có vàng hồ, đồ mã”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 144)
Tết hết, nhưng những ngày vui của dân Bình Dương
vẫn chưa hết vì còn có lễ Thỉnh Tào
Kê của người Tàu.Tiếng trống múa cù cứ
thùng thình từ sáng tới tối trên các
nẻo đường chợ Thủ làm lòng dạ ai nấy cũng muốn nhảy
cà tưng. Sau lễ này, không khí lễ hội ở
Bình Dương dịu hẳn lại, đường phố vắng hơn, mọi người bắt tay lo
toan công chuyện làm ăn cho năm mới. Một số người
có tiền bạc thì chuẩn bị đi viếng chùa ở nơi xa
hoặc đi nghỉ mát, tức du lịch Vũng Tàu hay Đà Lạt…
Trào bây giờ, lớp trẻ ngày càng thờ ơ với
Tết, nói không phải giả ngộ, chứ sắm cho bộ đồ mới
chúng không mừng, đồ ăn dọn sẵn ỉ ôi chúng
cũng không ưng. Nhắc chuyện Tết xưa, kể, có khi cũng chỉ
để mình nghe, rồi nhớ mông lung thui thủi một
mình.Nhớ bao người thân yêu đã khuất,
đã xa, bao hình ảnh khi mình còn là
đứa trẻ nhỏ, mừng hết cở vì có bộ đồ mới, có tiền
lì xì, chạy nhảy tung tăng, tất cả giờ đã nhạt
nhoà, chỗ còn chỗ mất.
Ở đời, có cái gì mà chẳng trôi qua!