Vài kỷ niệm với Lê Thành Nhơn

Võ Kỳ Điền


Tôi và Lê Thành Nhơn là bạn từ thưở ấu thơ, chúng tôi lớn lên ở xóm chợ Thủ Dầu Một thuộc thị xã Phú Cường. Hai đứa học trường Tư Thục Trung Học Nguyễn Trãi tọa lạc trên đường Võ Tánh. Cũng trên con đường nầy cách trường năm chục thước có con hẽm nhiều cây xanh, đầu hẽm là tiệm hủ tiếu Cây Dừa, đi sâu tuốt vô hẽm là nhà Nhơn, căn nhà bằng cây lá đơn sơ, cạnh con rạch nhỏ, bên kia là cầu đúc phía nhà thuốc Võ Văn Vân.

Thưở đó mỗi ngày có buổi học tôi thường la cà, lang thang từ nhà, băng ngang qua khu phố chợ, đến nhà Nhơn để rủ đi học chung. Thưở nhỏ, tôi cũng có nhiều bạn nhưng không biết tại sao tôi lại thích cùng Nhơn đi chung hơn là các bạn khác. Có lẽ tánh tình Nhơn hiền lành và ưa chiều chuộng bạn bè. Tôi là thằng nhỏ dễ buồn dễ vui, lại ưa hờn mát, giận lẫy, khó có bạn nào chơi lâu cho được ngoài Nhơn.… Bây giờ nhớ lại từ thời con nít đó cho đến bây giờ, hình như hai đứa chưa hề gây lộn hay đáùnh lộn lần nào.

Đến chơi nhà Nhơn có nhiều thú vị lắm. Nhà tuy nghèo nhỏ và đơn sơ, nhưng tôi đâu để ý mấy thứ đó làm chi. Cái tôi thích nhứt là mỗi lần đến, là Nhơn thường bày ra nhiều trò chơi ngộ nghĩnh. Những ngày nghỉ học tôi cùng Nhơn lội xuống rạch bên hông nhà để móc đất sét xám đen dẽo quánh lên phơi khô để nắn tượng. Tôi và Nhơn tha hồ mà nắn trâu, bò, gà, vịt, chó, heo, ông già, con nít… Trò chơi thiệt là vui và kỳ lạ. Tôi vốn làm biếng và thích ở dơ, nên việc vọc bùn vọc đất tay chưn mặt mũi tèm lem tuốt luốt thiệt là hạp.

Con người Nhơn toát ra một vẻ gì đặc biệt kỳ lạ lắm, tôi không giải nghiã được. Nhơn có thân hình lực lưỡng, xương to và lộ, da đen mun, mắt lộ, kiểu mắt ốc bươu, ánh mắt sáng quắt và mạnh. Đầu to, tóc quăn xoắn đuôi rùa và xương quay hàm bạnh hẳn ra, mặt vuông hình chữ điền, răng Nhơn trong sáng và đẹp. Không biết vì cạp mía hay cắn vật gì cứng rắn, răng cửa của Nhơn bị mẻ một miếng to, tôi thường nhìn cái răng mẻ như một thói quen khi nói chuyện với bạn. Mỗi lần nhớ tới Nhơn là tôi nhớ cái răng cửa mẻ đó. Thoạt trông Nhơn rất gồ ghề, bậm trợn và gân guốc, vóc dáng bề ngoài dễ sợ như vậy nhưng tánh tình bên trong lại hiền khô.

Tuy chơi thân và đến nhà Nhơn mỗi ngày, tôi chỉ biết mẹ Nhơn là một bà già tóc bạc với dáng vẻ phúc hậu. Bà ít nói và sống trầm lặng, tôi hoàn toàn không gặp cha Nhơn lần nào, nghe nói là ông đi làm xa, làm gì tôi không biết, thỉnh thoảng mới đem tiền về để gia đình chi dụng. Nhà có ba anh em trai, hao hao giống nhau, cũng to lớn, mập mập và đen đen. Tên của cả ba thiệt là lạ và hay. Anh Lê Chơn Thành, rồi Lê Thành Nhơn và cậu em út tên Lê Nhơn Thiện. Tên của người nầy lấy làm chữ lót của người kia, tên người kia lấy làm chữ lót cho người nọ… Tôi thích cách đặt tên của ba anh em nhà nầy lắm, rõ là cha mẹ muốn con cái liên kết nhau, ràng buộc gắn bó mà thương yêu nhau hoài hoài. Cũng do cách đặt tên nầy, tôi đoán ba má Nhơn tuy nghèo nhưng chắc chắn phải là người có học thức và có đời sống nội tâm cao.

Lúc đó, học sinh Việt Nam còn phải học chương trình thuộc địa, giáo sư dạy môn Sử Địa của chúng tôi là nhạc sĩ Lê Thương (Phạm Đình Hộ) với các bài giảng về cuộc Chiến tranh Thập Tự Giá Một Trăm Năm, Thời Trung Cổ, Thời Phục Hưng…bên Aâu Châu, cuộc Cách Mạng Tự Do Dân Chủ 1789, thầy giảng say mê bằng tiếng Pháp giọng Bắc nghe ngộ lắm và chúng tôi học cũng say mê. Tôi cố gắng học bài để được điểm tốt, thi cho đậu cao mà không chịu khó hiểu cho tường tận và ứng dụng được điều gì trong các bài học ở mấy cái xứ gì lạ hoắc đó.

Trái lại Lê Thành Nhơn khác tôi. Sau thời gian vọc đất nắn tượng, không biết do đâu và đọc thêm sách nào, Nhơn lại đâm ra say mê môn hội hoạ. Nhà bạn bây giớ lại đầy giấy trắng, thuốc màu và cọ. Tôi lại thấy Nhơn say mê với cọ với màu, và câu chuyện giửa tôi và Nhơn không còn là chuyện đá cá lia thia, đá gà, câu cá, lội sông như thưở trước nữa mà là nghe Nhơn miên man nói về mấy ông hoạ sĩ lạ hoắc như Renoir, Gaugin, Matisse, Van Gogh… gì đó. Mỗi lần nói về trường phái Tượng Trưng, trường phái Siêu Thực, Dã Thú, Lập Thể, Ấn Tượng… Nhơn nói say sưa, tôi lắng nghe bạn nói, mà không hiểu gì hết trơn. Tôi cũng tin rằng Nhơn biết tôi không hiểu, nhưng mà Nhơn vẫn nói, hình như Nhơn nói cho chính Nhơn nghe. Nói ra được điều mình yêu thích cũng là một thứ hạnh phúc, cần gì người hiểu hay không hiểu. Đến bây giờ thì tôi hiểu được một chút, nói là một nhu cầu và bộc bạch, thố lộ tâm sự là một nhu cầu cần thiết. Bên trong con người Nhơn chất chứa từ đời nào, có thể từ kiếp trước, một thứ đam mê nghệ thuật, rất to, thiệt là to, khó mà hiểu được…

Quả tình tôi có chịu khó lắng nghe… mà không cần phải hiểu và quả tình Nhơn có một sở thích mà tôi chưa từng thích bao giờ. Lúc đó cái tôi thích khác hẳn bạn mình. Tôi ngâm nga, ư ử suốt ngày các bài thơ có trong tay, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính… Tôi âm thầm nắn nót chép tay các bài thơ tình trong tập giấy trắng nõn, để tặng cho con nhỏ có cặp mắt thiệt to, học lớp Đệ Nhị Niên (deuxième année) mà tim đập thình thịch. Làm quen với con gái thiệt là khó và run muốn chết, tôi mắc cở mà thú thật với Nhơn như vậy..

Nhơn biết được chuyện đó và cười cho tôi tầm thường. Nhơn đôi khi nói với tôi, đời người ngắn ngủi và vô thường, được sống làm người thì phải làm cái gì hữu ích cho xã hội, nhưng đã làm thì phải làm cho vĩ đại, đừng chấp nhận sự tầm thường, hèn mọn… rồi sau đó những mẫu người vĩ đại của Nhơn là Van Gogh, Matisse…. lại ào ào tuôn ra. Bạn thường nói với tôi những thành công rực rỡ, những viễn ảnh cao xa, những sung sướng khi mình thực hiện được hoài bảo. Nhơn thường chê trách những kẻ sống không lý tưởng, chỉ cố học cho cao dùng bằng cấp kiếm tiền cho nhiều, sống giàu sang sung sướng bên vợ đẹp, con khôn….

Tôi biết rồi, chuyện vĩ đại mà bạn mình nói là tạo nên những công trình đồ sộ cho nghệ thuật, nghệ thuật hội hoạ, nghệ thuật điêu khắc…. Tôi nghĩ thầm, Nhơn và tôi ở tỉnh nhỏ, lại còn là con nít, học hành đâu có bao nhiêu, nhà lại nghèo thì làm sao làm chuyện gì cho vĩ đại được. Những nhà danh hoạ, điêu khắc mà Nhơn thường ôm ấp trong lòng, thường nhắc tới đó, coi là thần tượng đó, nghe nói họ sống nghèo khổ lắm, không vợ, không con, và chết trong hiu quạnh cô đơn. Những tác phẩm của họ chỉ nổi tiếng sau khi họ đã chết. Cũng như thầy Nhan Hồi, đức Khổng Tử đã từng khen ngợi - sống trong hẽm nhỏ, một giỏ cơm, một bầu nước mà vui với đạo lý, quên đi cái nghèo.

Nhà tôi vốn buôn bán và khá giả, tôi không hiểu và thiệt tình không hiểu, thiếu thốn, nghèo khổ làm sao mà vui được, thầy Nhan Hồi hay mấy ông Renoir, Gaugin gì đó... có thiệt là vui không, mà chết rồi, nổi tiếng sau khi chết, thì dù ông đạt được cái danh, họ cũng đâu có biết, sướng ích gì đâu,… Tôi nghĩ như vậy, thương cho bạn và thấy bạn thuộc mẫu người không tưởng, mơ mộng, xa xôi , hão huyền…

Sau khi cả hai đậu Trung Học xong, tôi phải xuống Sài Gòn tiếp tục học các lớp cao hơn. Nhơn lại thi đậu vào trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một, sau đó nhờ học giỏi thi đậu vào Cao Đẳng Mỹ Nghệ Gia Định… Rồi những nhu cầu cơm áo, những hệ lụy nhân sinh, tôi và Nhơn xa nhau biền biệt lúc nào không nhớ. Năm 1963 sau cuộc đảo chánh Ngô triều, tôi bất ngờ gặp Nhơn trong công viên Tao Đàn, trong phòng triển lãm rộng lớn, trình bày những hình ảnh Pháp nạn của Phật Giáo, Nhơn chỉ cho tôi bức tranh sơn dầu thật lớn, choáng đầy cả bức vách, hình ảnh những nạn nhân của chế độ đang rên siết oằn oại, vươn lên những cánh tay khẳng kheo như muốn bám víu một chút hy vọng, một chút tình thương, màu sơn đỏ bầm, tím nâu như màu máu, màu lửa, màu đấu tranh… tôi đọc được chữ ký tên Lê Thành Nhơn bằng sơn vàng ở góc phải. Cái to lớn vĩ đại của bức tranh cũng làm tôi chú ý.

Tôi hiểu ngay, những đường nét, màu sắc, khuôn khổ bạn tôi thể hiện cho tác phẩm không bao giờ có sự tầm thường và bạn tôi, tác giả, cũng không tầm thường. Con đại bàng lúc còn non thì cũng là đại bàng, không bao giờ là chim sẻ.

Lê Thành Nhơn rời Bình Dương mà bay nhảy tận chưn trời góc biển nào. Đời sống vật chất bạn ra sao, tôi không biết, vợ con bạn ra sao, nghề nghiệp ra sao, tôi không biết. Cuộc chiến lúc đó dữ dội và tàn khốc quá mà. Thời gian trước tháng tư, 1975 chừng vài tháng, Lê Thành Nhơn lái một chiếc xe Huê Kỳ lộng lẫy trở về Bình Dương kiếm tôi, không phải để đi rủ rê đi chơi mà bàn công chuyện. Tôi mừng cho bạn và ngạc nhiên hết sức. Bạn muốn tôi giới thiệu với ông bác, sui gia ba tôi ở Búng, thuộc quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. Tôi nhìn Nhơn ngạc nhiên và hỏi -bạn muốn tôi giới thiệu với bác Đạo để làm chi. ?

Nhơn lấy ra một hoạ đồ kiến trúc thật lớn để lên bàn và giải thích cho tôi hiểu. Khu vực xa lộ từ Búng lên Bình Dương có những ngọn đồi cao thấp thật đẹp, tại sao lại phí phạm đem trồng củ sắn với khoai lang, khoai mì, mình phải biến nó thành một công viên quốc gia với đầy đủ các tượng danh nhân, những người có công góp phần xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu nầy như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu… để con cháu noi gương yêu nước.

Tôi nhìn sững Nhơn - lập một công viên quốc gia, tiền ở đâu, ai cho, và làm như vậy để được cái gì, đất nước đang chiến tranh tàn khốc, làm sao mà thực hiện. Khả năng Nhơn tới đâu và công trình nầy đâu phải là một người có thể làm. Hàng trăm câu hỏi trong đầu, chuyện nầy Nhơn nói thiệt hay nói chơi và tôi chợt hỏi- tại sao bạn lại nhờ tôi giới thiệu với bác Đạo, bác Đạo có liên hệ gì tới vụ nầy ?

Nhơn nói cho tôi biết là Nhơn đã gặp ông xã Nhu làng Hưng Thạnh, cũng như đã nghiên cứu kỹ sổ địa bộ của vùng nầy, biết được những trái đồi đó thuộc sở hữu của bác Đạo, công trình nầy là tầm mức quốc gia, chớ không còn thuộc tỉnh hay địa phương nữa... Rồi Nhơn nói miên man những công trình mà Nhơn đã thực hiện ở Huế, ở Đà Nẵng, ở Phan Thiết, những phù điêu trang trí dinh Độc Lập, những cuộc triển lãm quốc tế, những huy chương vàng bạc nhận được và cuối cùng những phác hoạ đẹp đẽ trong tương lai cho Bình Dương chúng tôi -thung lũng xanh bên nầy phải là công viên cây cao rủ bóng, bên kia là suối reo, bên nọ là rừng thưa nuôi những đàn nai ngơ ngác, có những con đường trải sỏi cho những cặp tình nhân yêu nhau hò hẹn, dọc theo các đường mình dựng tượng… Tôi nghe mà như nằm chiêm bao, mới có chừng mười năm xa cách mà Nhơn đã khác lạ quá mức tưởng tượng trong tôi, thiệt tình tôi không ngờ, quả là không ngờ được…

Sau đó, Nhơn gặp bác Đạo trình bày, bàn cãi, thảo luận nhiều ngày về phương cách thực hiện dự án nầy. Lúc đó tôi mới bật ngửa, chuyện thiệt tình chớ không phải chuyện nói chơi, con đại bàng đã đủ lông cánh,…

* * *

Khi nghe tin Nhơn bịnh rồi biết tin Nhơn mất, tôi cảm thấy thật trống vắng và đâm nhớ miên man những ngày xưa. Chết hay sống là chuyện hiển nhiên đời người, có tụ thì phải có tan, có thành thì có hoại, Lê Thành Nhơn đã thấy rất rõ, rất rõ, bạn sẵn sàng ra đi yên vui, đời bạn đẹp quá, có gì phải tiếc nuối.

Ôm ấp những giấc mơ Renoir, Van Gogh… nhiều hay ít bạn đã thực hiện được. Lê Thành Nhơn bây giờ và mãi mãi sẽ là những Renoir, Van Gogh của những người yêu mến nghệ thuật. Sống một đời trọn vẹn cho những lý tưởng của mình, như vậy chẳng thoả nguyện sao ?

Cái nhân ngày trước và cái quả bây giờ, không phải do một sớm một chiều mà có được. Nhơn ơi, ở một góc trời thiệt xa, tôi bồi hồi nhớ thương bạn và ngay từ hồi còn nhỏ, tôi đã nhìn thấy bạn sẽ là con đại bàng và thời gian đã chứng minh đúng y như vậy, nhìn những tác phẩm của bạn để lại cho đời, khiến tôi hãnh diện và sung sướng. Bạn đã trở về được cõi trăng sao và màu sắc.

Võ Kỳ Điền (10 Feb 2003)


Tiểu sử Lê Thành Nhơn trên trang web tienve.org

Lê Thành Nhơn sinh ngày 17 tháng 11 năm 1940 tại Thủ Dầu Một, nằm ở phía đông Sài Gòn. Cha là Lê Văn Nguyện và mẹ Chung Thị Duyên, một người Việt gốc Chàm lai Trung Hoa.

Lê Thành Nhơn say mê nghệ thuật từ nhỏ. Ông học trung học tại trường Mỹ Nghệ Thực hành Bình Dương, một trường chuyên về trang trí, thiết kế đồ gỗ, đồ gốm và đặc biệt là sơn mài, nguồn cung cấp nghệ nhân chủ yếu cho các trung tâm sơn mài nổi tiếng tại Việt Nam như Thành Lễ và Trần Hà.

Sau đó, Lê Thành Nhơn thi đỗ vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn Gia Định. Năm 1963, lúc đang còn là sinh viên, tượng của ông đã được tuyển chọn để tham dự cuộc triển lãm mỹ thuật quốc tế lần thứ tư được tổ chức tại Paris. Năm sau, ông tốt nghiệp thủ khoa ngành điêu khắc, cùng khoá với Đỗ Quang Em, một trong những người bạn thân nhất của ông.

Tốt nghiệp, ông về dạy học tại trường Mỹ Nghệ Thực Hành Bình Dương. Hai năm sau, tháng 3 năm 1966, ông bị động viên. Ông ở trong quân đội cả thảy bốn năm, đến tháng 6 năm 1970 thì được giải ngũ với cấp bậc thiếu uý, sau khi bị thương nhẹ trong một cuộc hành quân. (Nhẹ, nhưng chất chì trong viên đạn bắn vào người ông, đến giữa thập niên 90, vẫn còn làm độc, khiến ông phải nằm viện mấy tuần lễ!)

Ngay khi vừa phục viên, ông được mời làm giáo sư điêu khắc tại trường Mỹ Thuật Sài Gòn Gia Định, đồng thời làm giáo sư thỉnh giảng tại trường Mỹ Thuật Huế. Mấy năm sau, từ năm 1973, ông được mời giảng dạy tại trường Đại học cộng đồng Duyên Hải tại Nha Trang. Mặc dù phải dạy học ở nhiều nơi như vậy, Lê Thành Nhơn vẫn dành nhiều thì giờ và tâm huyết cho công việc sáng tác. Các sáng tác của ông thời gian này phần nhiều có kích thước khá lớn, trong đó nổi bật nhất là bức tượng Quan Thế Âm bằng đồng tại trung tâm Liễu Quán ở Huế cũng như bức tượng Phan Bội Châu bằng đồng, cao đến 3,5 mét cũng tại Huế. Bằng cement thì có bức tượng Phật Thích Ca hiện dựng tại trung tâm Phật học Huệ Nghiêm ở Phú Lâm, Sài Gòn, cao đến 4,5 mét; bức tượng Phan Thanh Giảng cao hơn 3 mét đã bị đập phá vào năm 1975, và bức tượng Thiếu Nữ Việt Nam cao 4 mét hiện còn trong tư gia người nhà của ông tại Sài Gòn.

Cuối tháng 4 năm 1975, gia đình Lê Thành Nhơn may mắn nằm trong danh sách những người đầu tiên thoát khỏi Việt Nam. Sau mấy tháng tạm trú ở đảo Guam, gia đình ông được định cư tại Úc vào tháng 9 cùng năm. Để mưu sinh, thoạt đầu Lê Thành Nhơn làm nghề sơn xe trong hãng xe hơi ToyOta; sau đó, ông đổi sang làm nghề bán vé xe điện trong suốt mười năm, từ 1976 đến 1986. Năm 1987, Lê Thành Nhơn được mời dạy kiến trúc tại đại học RMIT, Melbourne. Năm sau, nghỉ dạy, ông cùng một người bạn mở trung tâm Bình Dương Ceramic chuyên sản xuất các tác phẩm nghệ thuật bằng gốm. Tác phẩm thì đẹp nhưng hoạt động thương mại rất mực èo uột, không mang lại lợi tức bao nhiêu. Đến năm 1996 thì ông nghỉ hẳn, chỉ ở nhà vẽ tranh.

Mấy chục năm định cư tại Úc, Lê Thành Nhơn sáng tác khá nhiều. Về điêu khắc, ông có một số tác phẩm được đúc đồng như tượng Dr Phillip Law hiện đang bày tại đại học Monash ở Melbourne và đại học Tasmania tại tiểu bang Tasmania, Úc; tượng Joy cao khoảng 2m5 hiện dựng trước sân trường đại học Monash (Caulfield campus), tượng “Đừng bỏ rơi tôi tự do” hiện bày tại Mekong Club tại Sydney, tượng Phật Thích Ca hiện bày tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia Úc tại thủ đô Canberra, v.v... Về hội hoạ, Lê Thành Nhơn có khoảng vài trăm bức tranh thuộc nhiều khổ khác nhau, trong đó có nhiều bức có kích thước rất lớn, như bức Yarra River dài 4 mét, bộ Tứ Đại gồm bốn bức (“Đất”, “Nước”, “Gió”, “Lửa”), mỗi bức cao 2 mét và dài 6 mét (riêng bức “Gió” dài đến 6,5 mét), v.v...

Sự nghiệp của Lê Thành Nhơn được đánh giá rất cao. Bức tượng Phan Bội Châu của ông được xem như một bộ phận trong quần thể di sản văn hoá cần được bảo tồn tại Huế dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tại Úc, Lê Thành Nhơn là một trong số ít nghệ sĩ có tác phẩm được trưng bày vĩnh viễn tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia Úc cũng như Viện Bảo Tàng Di Dân tại tiểu bang Victoria.

Vào đầu tháng 2 năm 2002, Lê Thành Nhơn bị bệnh, được chở vào bệnh viện, và được các bác sĩ cho biết là ông bị ung thư gan. Lê Thành Nhơn được chở về nhà, mỗi tuần một lần vào bệnh viện để được chữa bằng hoá liệu pháp (chemotherapy). Có lúc ông rất lạc quan, ngỡ có thể vượt qua được căn bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên đến cuối tháng 10 thì bệnh ông đột ngột trở nặng. Lê Thành Nhơn được chở vào Royal Melbourne Hospital vào trưa Thứ Sáu, 1.11.2002. Đến 4giờ30 chiều Thứ Hai, ngày 4 tháng 11, thì ông trút hơi thở cuối cùng.

Lê Thành Nhơn ra đi, để lại một vợ và bốn con. Tất cả các con ông đều đã trưởng thành, trong đó, người con trai thứ hai, Hưng Lê, là một danh hài của Úc.

(Nguyễn Hưng Quốc soạn dựa trên lời kể và một số tài liệu do Lê Thành Nhơn cung cấp)

 
tác phẩm  Vẽ Kiều  (hội họa) 
7 bức tranh Kiều ở lầu xanh, trong loạt tranh về Truyện Kiều, do Lê Thành Nhơn vẽ bằng bút chì trên giấy (1993-1996) ...

Vẽ Kiều  (hội họa) 
Bốn lần Kiều đàn: 1. "Trong như tiếng hạc bay qua" | 2. "Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm" | 3. "Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay" | 4. "Phím đàn dìu dặt tay tiên"

Sitting Buddha  (điêu khắc) 


Phỏng vấn Lê Thành Nhơn  (nhận định mỹ thuật) 
[Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 57-60.] Minh Nguyệt: Thưa anh Lê Thành Nhơn, thay vì hỏi tiểu sử của anh như thường lệ, MN xin hỏi ngay vào con đường dẫn anh đến với nghệ thuật. Anh có nhớ là anh đã đi vào hoạt động vẽ tranh và dựng tượng như thế nào không? (...)

Red cloak and haze  (hội họa) 


Four seasons in one day  (điêu khắc) 


Winter  (hội họa) 


Spiral  (hội họa) 


Shell  (hội họa) 


Pietà  (hội họa) 


Kiss  (hội họa) 


Birds of paradise  (hội họa) 


Phan Bội Châu  (điêu khắc) 


Louise Carbines  (điêu khắc) 


Joy  (điêu khắc) 


Head of the young girl  (điêu khắc) 


Dr. Phillip Law  (điêu khắc) 


Sitting Buddha at Hue Nghiem temple  (điêu khắc) 


Do not abandon me, Freedom  (điêu khắc) 


Sanh, Lão, Bịnh, Tử  (điêu khắc) 

 
Viết về Lê Thành Nhơn  Introduction to Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Nguyễn Hưng Quốc [An article from the book entitled Lê Thành Nhơn, edited by Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn and Tôn Thất Quỳnh-Du, published by VIET Journal, Victoria, Australia, 2002.] Lê Thành Nhơn was born in the province of Bình Dương, in the southern part of Vietnam, in 1940, and has been living in Melbourne, Australia since 1975.

Gracefully to Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Hoàng Ngọc-Tuấn [An article from the book entitled Lê Thành Nhơn, edited by Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn and Tôn Thất Quỳnh-Du, published by VIET Journal, Victoria, Australia, 2002.] I should never hesitate to admit that I regard Lê Thành Nhơn as one of the few artists whose power of creativity impresses me so immensely.

A note on Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Tienve.org [An article from the book entitled Lê Thành Nhơn, edited by Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn and Tôn Thất Quỳnh-Du, published by VIET Journal, Victoria, Australia, 2002.] In Vietnam Lê Thành Nhơn lectured in fine arts and was known throughout the country as a talented sculptor and painter and as a master craftsman in lacquer.

Phan Bội Châu's Bronze bust by Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Tôn Thất Quỳnh Du [An article from the book entitled Lê Thành Nhơn, edited by Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn and Tôn Thất Quỳnh-Du, published by VIET Journal, Victoria, Australia, 2002.] What is striking about Lê Thành Nhơn's huge bronze portrait of Phan Bội Châu is that it's so different from the usual commemorative statues of national heroes.

On Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Nhiều tác giả [An article from the book entitled Lê Thành Nhơn, edited by Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn and Tôn Thất Quỳnh-Du, published by VIET Journal, Victoria, Australia, 2002.] Lê Thành Nhơn conveys through his creative works a strong message of peace and harmony - peace with oneself and with others, and harmony amongst human beings as well as with the environment.

Over and above all these memories (nhận định mỹ thuật) - Bửu Ý [An article from the book entitled Lê Thành Nhơn, edited by Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn and Tôn Thất Quỳnh-Du, published by VIET Journal, Victoria, Australia, 2002.] Of all those days and moments laden with memories of Nhơn, I spent two substantial periods of time with him.

Lê Thành Nhơn và những trường thành của cái đẹp (nhận định mỹ thuật) - Nguyễn Hưng Quốc [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 9-11.] Nghĩ đến mỹ thuật Việt Nam đương đại, bên cạnh một số tên tuổi khác, tôi hay nghĩ đến Lê Thành Nhơn. Không phải vì anh là bạn của tôi. Mà chủ yếu vì trong nghệ thuật của anh có nét gì tôi tin là sẽ thuộc về vĩnh cửu.

Ấn Tượng Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Nguyễn Hưng Quốc [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 6-8.] Điều tôi thích nhất ở Lê Thành Nhơn là sự say mê của anh đối với những cái lớn lao và hùng vĩ. Làm gì Lê Thành Nhơn cũng muốn làm thật lớn.

Lê Thành Nhơn: một nghệ sĩ lớn (nhận định mỹ thuật) - Hoàng Ngọc-Tuấn [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 12-16.] Suốt hơn hai mươi lăm năm qua, trong số bằng hữu nghệ sĩ người Việt, tôi chưa từng gặp ai đem đến cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ về sức sáng tạo như Lê Thành Nhơn.

Lê Thành Nhơn: một mối ân ba suốt đời không trả hết (nhận định mỹ thuật) - Hoàng Ngọc-Tuấn [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 17-19.] Lê Thành Nhơn là một trong số vài nghệ sĩ mà năng lực sáng tạo nghệ thuật đã gây ấn tượng mãnh liệt trong tôi. Suốt mấy thập niên qua, mỗi lần đến thăm hoạ xưởng của anh, tôi không khỏi nghĩ đến một đại thụ liên lỉ sản sinh những hoa trái mới, và tôi bị choáng ngợp trong một niềm sung sướng.

Lê Thành Nhơn trong Diaspora Việt Nam (nhận định mỹ thuật) - Bội Trân [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 47-50.] Người ta sẽ nhớ gì về một tác giả sau khi tác giả đã qua đời? Dĩ nhiên trước hết là tác phẩm. Đó là căn cước cụ thể trung thực chứng minh cho tài năng.

Phỏng vấn Lê Thành Nhơn (nhận định mỹ thuật) - Lê Thành Nhơn  /  Minh Nguyệt [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 57-60.] Minh Nguyệt: Thưa anh Lê Thành Nhơn, thay vì hỏi tiểu sử của anh như thường lệ, MN xin hỏi ngay vào con đường dẫn anh đến với nghệ thuật. Anh có nhớ là anh đã đi vào hoạt động vẽ tranh và dựng tượng như thế nào không?

Nhớ Lê Thành Nhơn (truyện / tuỳ bút) - Võ Quốc Linh [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 62-67.] Lê Trung Hưng, con trai đầu lòng của anh Lê Thành Nhơn, từ trên bục nói của nhà quàng John Allison/Monkhouse, nhìn xuống hàng người lớp lớp lặng lẽ ngồi.

Lê Thành Nhơn (truyện / tuỳ bút) - Võ Đình [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 20-21.] Trước đó, tôi từng gặp Lê Thành Nhơn. Gặp tác phẩm, không gặp người. Sau buổi nói chuyện ở trường Mỹ thuật, tôi cùng nhiều người bước ra sân. Không nhớ ai đã chỉ cho tôi xem tượng Phan Bội Châu. Ở Huế, người ta gọi là cụ Phan. Hay cụ Phan Sào Nam.

Trở về với Đất (truyện / tuỳ bút) - Ðinh Cường [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 25-30.] Hình ảnh còn đậm nét trong trí nhớ tôi, về một người bạn làm điêu khắc luôn nuôi hoài bão lớn. Đã nhồi hàng tấn đất sét để làm tượng, nay lại đành xuôi tay trở về với Đất.

Nhớ về Lê Thành Nhơn (truyện / tuỳ bút) - Bửu Ý [Trích tạp chí Văn, 72, tháng 12, 2002, số đặc biệt “Chia Tay hoạ sĩ – điêu khắc gia Lê Thành Nhơn (1940-2002)”, trang 22.] Ngoài những ngày, những lúc có kỷ niệm với Nhơn, tôi có sống hai lần khá lâu dài với bạn.

Thơ gởi Lê Thành Nhơn (thơ) - Uyên Nguyên

Chiều về (thơ) - Tạ Duy Bình

Nhớ Lê Thành Nhơn (thơ) - Nguyễn Hoàng Tranh
 

Lê Thành Nhơn trong Việt Nam Diaspora

(Huỳnh Bội Trân)

Người ta sẽ nhớ gì về một tác giả sau khi tác giả đã qua đời? Dĩ nhiên trước hết là tác phẩm. Đó là căn cước cụ thể trung thực chứng minh cho tài năng. Lê Thành Nhơn thao lược từ điêu khắc, hội họa cho đến gốm; cái nào anh cũng làm “hết mình”, chữ của anh, đến nỗi người ta có thể tin rằng, một cách dị đoan, anh đã sống hơn một kiếp người với chừng đó tài năng; 62 năm hiện hữu của anh là một sự cô đặc.

Người đời sẽ nhớ đến Lê Thành Nhơn nhiều, nhiều hơn cả mức người ta có thể hình dung. Anh là nhân chứng đứng ở một ngả rẽ lịch sử của Việt Nam, và đồng thời anh là một tác nhân trong dòng lịch sử đó. Việc di tản của những người Việt Nam sau 1975 đã mở ra một hiện thực mới, một Diaspora Việt Nam – cộng đồng Việt Nam tha hương ở khắp các lục địa trên thế giới, Hoa Kỳ, Pháp hay Australia. Diaspora Việt Nam này cho thấy sức mạnh của tính Việt Nam, và Lê Thành Nhơn biểu lộ nó qua công việc của mình. Anh là bằng chứng rực rỡ nhất cho một Diaspora Việt Nam sống đàng hoàng trong một nền văn hoá khác, đi vào nền văn hoá khác bằng cổng chào. Năng lượng của một Diaspora Việt Nam ở chỗ nó không mất đi sắc thái của mình khi hội nhập vào xã hội định cư mà còn làm phong phú thêm chính mình và môi trường văn hoá chủ nhà. Anh là một trong những nhân tố trong Diaspora Việt Nam, và là nhân tố trội. Sự có mặt của Lê Thành Nhơn ở đất nước Kangaroo này là một “fair play”; anh không những đóng thuế như một công dân Úc, như mọi công dân khác, mà còn để lại những cái đẹp ngoài sức mong đợi của miền đất cưu mang. Anh là đối trọng của những nhân vật “ngày nào cũng ngồi chờ ăn giỗ ở nhà mẹ” (chữ của Lê Thành Nhơn) khi nhân danh bảo vệ truyền thống mà thực ra chỉ bào mòn nó.

Nhưng trước hết, người ta nhớ đến anh, vì anh nói lên tiếng nói của con người: lòng tin, niềm hoan lạc, nỗi trăn trở, tình yêu, sự khao khát, đam mê…

Lê Thành Nhơn làm việc nhiều, tác phẩm của anh ở trong nhiều bộ sưu tập của chính phủ và tư nhân khác nhau. Một màn điểm danh đầy đủ tác phẩm của anh sẽ cần đến một công trình nghiên cứu dài. Cái gì đã làm nên một dấu ấn Lê Thành Nhơn, hay phong cách Lê Thành Nhơn? Cái gì là mẫu số chung của những tác phẩm của anh từ điêu khắc, gốm sang đến hội họa? Có thể có nhiều ý kiến khác nhau. Riêng tác giả bài viết này tin rằng tính biểu tượng (Symbolism) và sự biểu cảm (Expressiveness) là hai thành tố có mặt trong mọi tác phẩm của Lê Thành Nhơn. Lê Thành Nhơn quí trọng truyền thống, nhưng không “ăn mày truyền thống” theo nghĩa sao chép những motif ngày xưa để vỗ ngực nói về một tính Việt Nam bất biến. Anh hiểu được mỹ thuật truyền thống của Việt Nam nằm trong khả năng khai thác tính biểu tượng, việc dùng một hình ảnh để miêu tả căn nguyên của một sự kiện khác, do đó khiến tác phẩm ôm ấp nhiều lớp nghĩa khác nhau. Đồng thời mỹ thuật sẽ không còn là mỹ thuật nếu nó không bộc bạch được cảm xúc và mang lại cho người ta cảm xúc. Vậy thì, biểu tượng và biểu cảm có thể so sánh với “lý” và “tình” mà người nghệ sĩ phải cân bằng khi muốn đưa tác phẩm của mình vào một cuộc đời lâu bền.


Chân dung của nhà soạn nhạc Hoàng Ngọc-Tuấn bằng đồng được miêu tả hết sức sinh động và đầy ngẫu hứng, giống như một bản tốc họa từ tay một họa sĩ tài ba, hay như một snapshot của một nhiếp ảnh gia nhà nghề. Lê Thành Nhơn giữ lại một khoảnh khắc tiêu biểu cho cá tính của một con người. Nhà soạn nhạc của chúng ta đang tròn miệng say sưa hát, má tóp vào, đôi mày nhíu lại trên cái trán vồ, hai bên trán li ti những đường gân. Chân dung Hoàng Ngọc-Tuấn là một biểu tượng cho tuổi trẻ Việt Nam sôi nổi, người ta tưởng như nghe được nhạc của Trịnh Công Sơn đang được hát từ bức tượng. Chất thô ráp mà Lê Thành Nhơn thể hiện trên chân dung này ngược lại với sự phẳng phiu đường hoàng của tượng Phật ở Canberra, nó cũng khác với tính biểu hiện trong tác phẩm Joy đặt ở sân trường Monash. Ngoài cái giống về diện mạo, Lê Thành Nhơn còn lột tả được tinh thần của người bạn trẻ của ông, và nếu chúng ta biết rằng Lê Thành Nhơn đã làm tượng này từ trí nhớ chỉ sau một lần gặp lại duy nhất ở miền đất định cư. Hai nhà văn nghệ làm bạn với nhau từ ở Việt Nam khi Lê Thành Nhơn giảng dạy tại Trường Đại Học Duyên Hải ở Nha Trang từ 1973 cho đến 1975. Năm 1985, Hoàng Ngọc-Tuấn trình diễn trong một buổi hoà nhạc ở Collingwood Town Hall tại Melbourne, và ngạc nhiên vô cùng khi buổi diễn kết thúc, khán giả Lê Thành Nhơn đã bước lên sân khấu ôm chầm lấy anh. Hai người bạn cũ hội ngộ được hai ngày ở Melbourne thì Hoàng Ngọc-Tuấn phải quay về Sydney. Chỉ hai ba tháng sau, Hoàng Ngọc-Tuấn nhận được món quà từ Lê Thành Nhơn với lời nhắn nhủ: “Tôi đóng đinh bạn như là người ta đã đóng đinh Chúa Jesus, bạn là người duy nhất còn sống mà tôi làm chân dung. Bạn phải đi cho hết con đường nghệ thuật của mình”. Khi đó Hoàng Ngọc-Tuấn còn là một “tên Việt Nam mới định cư, cầu bơ cầu bất” như lời anh tự nhận xét, còn Lê Thành Nhơn thì đang làm nghề bán vé trên xe điện với mức thu nhập không phải là dồi dào cho việc đúc đồng một tác phẩm mang đi tặng bạn. Đó là sự hào phóng của dân miền Nam mà không phải dân giàu có nào cũng có thể sánh kịp. Đó là một lời tiên tri của một tâm hồn nghệ sĩ lớn, thấy được sự phát triển sắp tới trên cái nền tảng hiện hữu. Đó là sự mẫn cảm của tài năng thiên phú Lê Thành Nhơn cộng với trí nhớ mang tính thị giác kỳ diệu của nghệ sĩ.


Một tác phẩm của Lê Thành Nhơn nữa cũng mang đầy tính biểu tượng: Tuổi Già, 1987, trong loạt điêu khắc Sinh Lão Bệnh Tử của anh. Tuổi già qua tay Lê Thành Nhơn là một nhân vật chống gậy lưng khòm, hai yếu tố tiêu biểu cho mọi người già. Tuy nhiên lưng khòm biến thành một đường thẳng ngang đối lập với bước chân xoạc dài tạo ra một đường cong. Tuổi già của anh là cái nhìn lạc quan về quãng đường mà con người đó đã đi qua, bước chân xoạc dài. Chiếc gậy chống tạo ra một lực để con người đó hướng về phía trước. Như vậy hình thể và đường nét được xử lý vô cùng thích đáng và tinh tế để nói lên tinh thần nhân bản của Lê Thành Nhơn trong nghệ thuật. Anh yêu cuộc đời và con người biết bao để có thể cảm nhận tuổi già một cách tích cực như vậy! Ấy vậy mà anh không có tuổi già.


Chiếc lục bình Hai Bà Trưng là một tác phẩm gốm độc đáo cao 87 cm, đường kính 96 cm, thực hiện năm 1988. Phù điêu cao trải tràn trề trên thân cái lục bình truyền thống kể lại lịch sử Hai Bà Trưng cưỡi voi đuổi giặc. Những vầng mây sóng cuộn nâng đỡ và theo đuổi những tráng sĩ cầm gươm xông pha trên lưng ngựa, một đoàn quân ra trận khí thế oai hùng. Các nhân vật và chi tiết phụ trồi lên trên mặt phẳng ở nhiều độ cao khác nhau chạy tròn theo thành bình làm thành một nhịp điệu dồn dập. Và khi đưa mắt mình đi theo vòng tròn của tác phẩm để đọc những chi tiết ấy, người xem bất giác hiểu ra rằng lịch sử có rất nhiều khúc quanh và nếp cuộn ẩn nấp. Hình ảnh hai bà như hình ảnh người mẹ Việt Nam, trong chiếc áo dài tha thướt nổi bật trên thành ngoài của bình, như hình của một bà tiên hiện ra vừa thống trị trong bố cục mà lại vừa tao nhã trong những đường nét. Trong khi những tác phẩm gốm khác mang nhiều tính nhục cảm thì chiếc lục bình này là một bản hùng ca đầy hào khí bằng hình ảnh, khối và màu sắc. Lê Thành Nhơn dùng màu da vàng rất gốm Bình Dương, cộng với màu xanh đồng và xanh biếc. Kỹ thuật nung của anh tuyệt vời ở chỗ thành bình có độ dày lồi lõm khác nhau nhiều, mà tuyệt nhiên không có một vết rạn xương cốt hay men. Người ta tin rằng anh đã trải qua rất nhiều thử nghiệm trong xưởng làm của anh tại Dandenong để có được một tác phẩm vuông tròn. Lê Thành Nhơn không ngại; anh bao giờ cũng muốn “làm cho đàng hoàng” và “sống đàng hoàng”. - Bội Trân

----------------

Chú thích (của Bội Trân): Những chữ trong ngoặc kép là chữ của anh Lê Thành Nhơn.

 

Chú thích (của NHQ):


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Có thể xem tiểu sử và tác phẩm của Lê Thành Nhơn trên Tiền Vệ: http://tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=63

[2] Tất cả các bức này đã được đăng trên Tiền Vệ, dưới nhan đề chung “Vẽ Kiều”. Có thể xem trên http://tienve.org/home/visualarts/viewVisualArts.do?action=viewArtwork&artworkId=4899

[3] Nhan đề luận án là “Vietnamese Aesthetics from 1925 onwards”, đệ trình tại University of Sydney năm 2005. Có thể xem trên http://ses.library.usyd.edu.au/handle/2123/633

[4] Có thể xem tiểu sử đầy đủ của Bội Trân trên http://www.austlit.edu.au/run?ex=ShowAgent&agentId=AajG;  http://www.engagingwithvietnam.com/speakers/dr-boitran-huynh-beattie; http://diacritics.org/2012/obituary-dr-boitran-huynh-beattie-1957-2012?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=obituary-dr-boitran-huynh-beattie-1957-2012



Sau 9 năm "lênh đênh", "Cô gái Việt Nam" đã về với Huế
(Dân trí) - Sau nhiều cố gắng, tỉnh Thừa Thiên - Huế cuối cùng đã đưa được bức tượng tên “Cô gái Việt Nam” về TP Huế vào ngày 21/4 theo đúng như ước nguyện của tác giả - cố họa sĩ điêu khắc tài hoa Lê Thành Nhơn cách đây 9 năm.
Tượng Cô gái Việt Nam được giới mỹ thuật Việt Nam xem là 1 trong những tác phẩm để đời của nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn như: tượng Quán Thế Âm bằng đồng (đặt tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán, đường Lê Lợi, TP Huế), tượng chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu bằng đồng cao 3,5m (đặt tại Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu, đường Phan Bội Châu, TP Huế), tượng Phật Thích Ca bằng xi măng cao 4,5m (đặt tại chùa Huệ Nghiêm, TP HCM).
Điêu khắc gia Lê Thành Nhơn lúc còn sống bên tượng “Cô gái Việt Nam” tại TP HCM (ảnh tư liệu)
 
 
Bức tượng Cô gái Việt Nam có chiều cao 2,6m nặng gần 5 tấn do điêu khắc gia Lê Thành Nhơn tạc năm 1970 tại xưởng điêu khắc cá nhân của ông tại Sài Gòn. Khi ông ra nước ngoài định cư tại Úc, bức tượng tạm chuyển đến nhà một người bà con của ông ở số 10 đường Lê Ngô Cát, Q3, TP HCM.

Trước khi qua đời năm 2002, Lê Thành Nhơn đã gửi thư cho 1 người bạn là dịch giả, nhà Huế học Bửu Ý đang sống tại TP Huế với ý muốn bức tượng Cô gái Việt Nam sẽ được về với Huế.

Trong thư, ông viết: “Pho tượng “Cô gái Việt Nam” mình tạc vào năm 1970, đầu mùa chương trình thực hiện các tượng danh nhân Việt Nam. Ngôi nhà Nguyễn Du sau này thuộc về người Nhật. Pho tượng sẽ được chở về Nhật hoặc bị đập bỏ nhường chỗ cho xây cất của họ. Chính vì lý do này mà mình cầu được tượng ra khỏi nhà Nguyễn Du mà tác quyền vẫn được của mình. Nay tóc Nhơn đã rụng sạch đầu. Thư này viết cho Bửu Ý nói lời thầm hỏi nồng nàn và sâu xa nhứt. Và mình muốn nhờ Bửu Ý đưa giùm pho tượng cuối cùng này của Nhơn về Huế. Nếu thấy được, xin ông bỏ chút công đức liên lạc với quý vị có quyền chức yêu nghệ thuật cho tác phẩm điêu khắc "Cô gái Việt Nam" hứng một thoáng mù sương, một thoáng nắng chơi”.

Thực hiện và tôn trọng nhà cố điêu khắc tài ba, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã nhiều lần cất công liên lạc, trao đổi với gia đình Lê Thành Nhơn và nơi đang đặt tượng hiện tại. Sau nhiều năm, công việc đã hoàn thành với sự đồng ý của 2 bên.

Ngày 16/4 vừa qua, tại TP HCM, Sở VH-TT-DL tỉnh TT-Huế đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật, Trung tâm Công viên cây xanh Huế và gia đình nhà điêu khắc - họa sĩ Lê Thành Nhơn tổ chức lễ bàn giao và tiếp nhận, đưa tượng “Cô gái Việt Nam” về Huế.

Trưa 21/4, bức tượng đã được đưa về TP Huế an toàn và tạm đặt ở công viên Hai Bà Trưng (trước trường nữ sinh Đồng Khánh xưa, hiện nay là trường THPT Hai Bà Trưng) Vài ngày nữa, khi bệ tượng hoàn tất, tượng Cô gái Việt Nam sẽ được cẩu lên bệ tại công viên này nhân kỷ niệm 36 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975- 30/4/2011), hoàn thành ý nguyện của cố điêu khắc tài ba đã có công lớn với Huế trong lĩnh vực nghệ thuật.


Tượng Cô gái Việt Nam đã về Huế trưa 21/4.
 
Nhà văn Bửu Ý, người bạn thân của nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn hoàn toàn đồng tình về vị trí đặt bức tượng. Ông cho rằng, một bức tượng về cô gái và được đặt trước ngôi trường chỉ dành cho nữ sinh trước đây là điều tuyệt vời. Thêm nữa, khoảng không gian bên bờ sông Hương cũng là nơi lý tưởng để du khách có thể chiêm ngưỡng tác phẩm.

Dưới đây là một số hình ảnh về bức tượng “Cô gái Việt Nam” của cố điêu khắc gia Lê Thành Nhơn và những tác phẩm để đời của ông hiện có tại Huế.


Tượng "Cô gái Việt Nam" rất lớn nằm trước trường Hai Bà Trưng - trước kia là trường nữ sinh Đồng Khánh
 

Khuôn mặt rất hiền hậu
 

Nơi đặt bệ tượng đang khẩn trương thi công, dự kiến tượng sẽ được đặt trước 30/4
 

Tượng sẽ nằm ở công viên Hai Bà Trưng, hướng ra sông Hương thơ mộng. 2 bức tượng “anh em” với tượng này là tượng Quán Thế Âm hiện đang nằm tại Liễu quán Huế và tượng cụ Phan Bội Châu sắp được đem về đặt dưới chân cầu Trường Tiền. Bộ 3 tượng của Lê Thành Nhơn sẽ nằm 1 trục dọc sát sông Hương cho du khách và dân Huế chiêm ngưỡng
 

Bức tượng Quán Thế Âm bằng đồng đen của Lê Thành Nhơn mà theo nhiều người khuôn mặt có những nét khá giống với ca sĩ hát nhạc Trịnh Công Sơn hay nhất - Khánh Ly
 
Một bức tượng khác của cố điêu khắc đặt tại Huế: Tượng chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu bằng đồng cao 3,5m