Tìm
hiểu về ý nghĩa chữ Thuyền trong địa danh An Nhất Thuyền
Từ Minh Tâm
Trong bài viết mới nhất của
mình là: “Về tên gọi An Nhất Thuyền ở huyện
Bình An, Thủ Dầu Một xưa”, TS Huỳnh Ngọc Đáng đã
sửa lại sai lầm của mình khi đã cho rằng An Nhất Thuyền
là một đơn vị hành chánh cấp cơ sở tương đương với
xã phường của triều Nguyễn trong tập sách “Phú
Cường, Lịch sử - văn hóa và truyền thống cách
mạng” cũng do ông chủ biên, được xuất bản năm 1990.
Theo nhận định mới của ông, chữ thuyền
có nghĩa là tàu thuyền và địa danh An Nhất
Thuyền là một căn cứ thủy binh cấp nhỏ nhứt của triều Nguyễn
đóng ở khu vực sông Bình Giang (sông
Sài Gòn ngày nay) để tuần tra và bảo
vệ an ninh thủy lộ quan trọng nầy. Vị trí của An Nhất Thuyền dựa
vào ghi chép địa bạ dưới đây:
“An Nhất Thuyền, ở xứ Đặc Du (Dầu Đặc).
Đông giáp địa phận thôn Phú Lợi Đông.
Tây giáp sông lớn. Nam giáp thôn
Phú Lợi Đông, có rạch nhỏ làm giới. Bắc
giáp thôn Chánh An, có lập cột gỗ làm
giới. Thực canh thổ trạch 1 mẫu 2 sào, bản thuyền đồng canh. Đất
gò đồi 1 khoảnh. Đứng tên bẩm trình và
đóng dấu ký tên là Thuộc binh Tiền
súng An Nhất Thuyền, thập trưởng La văn Lộc.”
Tuy nhiên khi tiếp tục nghiên cứu
về An Nhất Thuyền chúng tôi tìm được thêm một
số tài liệu như sau:
1. Theo
Phan Khoang trong tài liệu nghiên cứu về Xứ
Đàng Trong: phần nói về quân đội thời Chúa
Nguyễn:
...“Quân đội có bộ binh, thủy binh và
tượng binh, chia làm thuyền, đội, cơ, dinh. Thuyền là đơn
vị thấp nhất.”... (trang 468).
Như vậy thì “thuyền” không phải
dùng duy nhất cho thủy binh.
2. Theo
website Lịch Sử Việt Nam: phần viết về Các Chúa
Nguyễn ở Đàng Trong:
… Quân đội của chúa Nguyễn gồm 3 loại: quân
Túc vệ hay Thân quân, quân chính quy ở
các dinh và thổ binh hay tạm binh. Các loại
quân đều chia thành cơ, đội, thuyền…
Như vậy thì từ "thuyền" là đơn vị
nhỏ nhứt và được dùng có mọi loại quân.
3. Theo
website www.quansuvn.net: phần viết về Lực lượng vũ trang
nhà Nguyễn (1558-1945):
Thời kỳ thứ nhất (1558-1777)
… Quân số thường trực có khoảng 40.000 người, khi
chiến sự xảy ra (trong nội chiến Trịnh-Nguyễn) quân đội Nguyễn
lên tới 100.000 người.
Hệ thống tổ chức Quân đội Nguyễn gồm có: dinh, cơ,
đội, thuyền…
Thời kỳ thứ hai (1778-1945)
... Quân đội Nguyễn chia làm hai bộ phận chính
quy, một bộ phận đóng ở kinh đô gọi là Vệ binh,
có nhiệm vụ chính là bảo vệ Kinh thành
Phú Xuân (Huế). Hệ thống tổ chức và biên chế
cơ bản gồm có:
- Doanh biên chế 5 vệ;
- Vệ biên chế 10 đội, đứng đầu vệ là Vệ uý;
- Đội biên chế 5 thập, đứng đầu đội là Suất đội;
- Thập biên chế 10 ngũ, do Chánh đội trưởng chỉ huy;
- Ngũ gồm 5 người, do Ngũ trưởng chỉ huy.
Như vậy từ " thuyền" chỉ sử dụng trong thời Chúa Nguyễn,
qua đến thời Nhà Nguyễn (bắt đầu từ thời vua Gia Long)
thì đơn vị nhỏ nhứt của quân đội là ngũ, chớ
không phải là thuyền như trước. Từ đó chữ thuyền
không còn thông dụng trong quân đội và
cả trong dân gian. Địa danh An Nhất Thuyền dần dần bị lu
mờ. Trong Hồi Ký của Grammont xuất bản năm 1863, phần
mô tả về Thủ Dầu Một, đã không thấy đề cập tới An
Nhất Thuyền mà chỉ có các địa danh: làng
Chánh An, làng Phú Cường.
4. Theo
wikipedia:
Về Quân đội chúa Nguyễn:
… Binh có hai loại đầu, cũng như ngoài Bắc được gọi
đi quân dịch; những trai tráng khỏe mạnh sung thẳng
vào quân ngũ và một số được gọi dần có
tính cách trừ bị. Việc binh bị đối với các
chúa miền Nam là một việc quan trọng nhất, gồm những đơn
vị dưới đây:
• Ở hạ tầng là Thuyền hay Tiểu đội,
có từ 30 đến 50 người cùng làng hay thuộc
làng lân cận. Đội có từ hai ba đến năm Thuyền do
một Đội trưởng hay một Cai đội trông. Cơ gồm có nhiều đội
thường có tới từ 6 đến 10 Thuyền, có cơ đặc biệt gồm
có tới 60 thuyền. Quân số có từ 250 đến 600 người,
do một cai cơ hay trưởng cơ chỉ huy.
• Thời đó có 5 cơ: Trung cơ, Tả
cơ, Hữu cơ, Hậu cơ và Tiền cơ.
• Dinh gồm có một số quân ngang với
cơ do một Trưởng dinh điều kiển. Dưới quyền Trưởng dinh có
các Trưởng cơ (theo sự khảo cứu của các sử gia
Pháp quân số của các đơn vị trong binh đội Nam
Hà hay thay đổi về quân số, nghĩa là quân số
khi thăng khi giảm không nhất định)…
5. Theo
Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức:
… Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển
Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn
Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính
Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai
Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh)
([31][31]) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất
Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm
huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay
là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm
huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần
Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và
Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty
Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có
tinh binh cơ, đội, thuyền, thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ.
Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu
dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra
thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất,
lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu
người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã
Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập
thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ
tịch…
Như vậy, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Nam Kỳ,
ông cũng theo cách tổ chức của Chúa Nguyễn
mà lập ra hệ thống quân đội gồm dinh, cơ, đội, thuyền.
6.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn
(1776) - quyển thứ ba có ghi:
… Về dinh Trấn-biên thuộc phủ Gia-định: có Trung cơ,
thuộc vào cơ ấy có 8 thuyền Kiên binh, Kiên
súng, Tả nhung súng, Hữu nhung súng, Hữu thắng
súng, Xung đao tam, Tráng nhuệ, thủ Thuận tứ (Lưu coi 7
thuyền, Ký lục coi 1 thuyền).
Có đội Bình bộ, thuộc vào đội ấy có 3
thuyền là Kiên đao, Xung đao nhất, Tả thắng súng.
Có đội Súng bộ, thuộc vào đội ấy có 3
thuyền là Tả kiên súng, Hữu kiên súng,
Xung đao nhị.
Có đội Kiên thủy, thuộc vào đội ấy có 4
thuyền là : Tráng nhất, Tráng nhị, Tráng
tam, Hữu hùng.
Có đội Tân tiệp, thuộc vào đội ấy có 3
thuyền là Phân nhất, Phân nhị, Phân tam để giữ
cửa Hà-bá và cù lao Côn-luân.
Có đội Hùng ngụ thuộc vào đội ấy có 3
thuyền là Nhuệ nhất, Nhuệ nhị, Nhuệ tam để giữ Trường voi.
Có đội Tráng ngự, thuộc vào đội ấy có
3 thuyền là Định nhất, Định nhị, Định tam để giữ ngã ba
Long-cốt. 3 đội ấy cộng là 9 thuyền đều 50 người, đều lấy thổ
dân, miễn không phải đóng tiền, gạo. Chức Cai đội
và Chánh, Thứ Đội trưởng đều cho tiện nghi điền bổ, miễn
không phải nộp tiền gạo.
Như vậy theo Phủ Biên Tạp Lục thì vào năm
1776, ở Trấn Biên chưa có Thuyền An Nhất (hoặc đã
có rồi nhưng không được ghi vào sổ sách
nên Lê Quý Đôn không biết). Điều nầy cần
nghiên cứu thêm.
Thêm vào đó:
Về trấn dinh Hà-tiên có 8 thuyền là
Kiên nhất, Kiên nhị, Kiên đao, Kiên nhung,
Nghĩa thắng, Kiên phong, Long kỳ, Tráng súng (Tổng
binh coi 6 thuyền, Cai bạ, Tri bạ đều coi 1 thuyền).
Có đội Thủy thắng, thuộc vào đội ấy có 3
thuyền. Có đội Hùng bộ 3 thuyền và các đội
Tả thủy, Hữu thủy. Các ngạch binh ở cơ, đội và thuyền kể
trên đây, trừ thổ binh được miễn gạo sưu xuất thì
không được cấp lương, còn thì lĩnh lương ở kho.
Số binh coi giữ kho ở các xứ là : Kho Tân-an ở
2 phủ Thăng-hoa, Điện-bàn thì có thuyền An nhất.
Hai kho An-khang, Tu-vinh ở phủ Quảng-nghĩa thì có
thuyền Bình nhất.
Kho Phú-đăng có thuyền An nhất. Kho Thời-phú
ở phủ Quy-nhân có thuyền Tân nhất.
Kho Đạm-thủy có thuyền Mỹ nhất. Kho Kiến-dương có
thuyền An nhất. Các thuyền kể trên mỗi thuyền đều 50 người.
Kho Xuân-đai ở phủ Phú-an có thuyền An nhị 20
người.
Kho An-toàn có thuyền An nhất 40 người.
Về thuộc liêm-hộ ở Thăng-hoa có thuyền Liêm
súng 50 người.
Kho phủ Gia-định có 3 thuyền ở đội Tân tiệp để coi
giữ. Đó là số binh ở một xứ Quảng-nam vậy.
....
Như vậy tên thuyền An Nhất được sử dụng rất phổ thông.
Trong một dinh như dinh Hà Tiên mà đã
có tới 4 thuyền An Nhất.
7. Theo
Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh của Nguyễn Đình
Đầu:
... Bảng Xếp Thứ Tự Diện Tích Ruộng Đất
Thực Canh Thực Cư của 1.637 làng Lục Tỉnh Hồi 1836-1837:
trang 216 ....
92. An Nhứt Tỉnh
Biên Hòa, Bình An, Bình Chánh
Trung 1.2.0.0
Diện tích thực canh thực cư của
"làng" An Nhứt theo tài liệu nầy là 1 mẫu 2
sào 0 cao (tương đương 5.872 m2 hay gần 0,6 mẫu đất ngày
nay). Diện tích nầy đúng chính xác theo ghi
chép địa bạ đề cập bên trên. Tuy nhiên diện
tích 0,6 mẫu đất là một diện tích quá nhỏ
không thể tương đương một làng hay xã được. Nếu
theo mô tả địa bạ thì vùng đất có tên
An Nhất Thuyền lớn hơn rất nhiều (từ sông Sài Gòn
lên tới thôn Chánh An).
8. Theo
Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh của Nguyễn Đình
Đầu:
...“Thuyền là một đơn vị thủy quân
xưa được chia cho một địa phận trên đất liền để lập làng
(đa số nay thuộc Vũng Tàu)(tr.130) ...
Câu văn không rõ nghĩa
có thể làm cho người đọc hiểu lầm. Thuyền là một
đơn vị thủy quân xưa thì đúng, nhưng lập
làng rồi mà vẫn gọi đơn vị hành chánh
đó là thuyền thì phải xét lại.
Kết luận:
Theo nghiên cứu trên đây ta có thể kết
luận: chữ Thuyền trong từ An Nhất Thuyền không có nghĩa
là tàu thuyền. Thật ra, thuyền là một đơn vị
quân đội cấp thấp có từ 30-50 binh lính cùng
làng hay ở lân cận. Thuyền có thể là bộ binh
hay thủy binh. An Nhất Thuyền ở Bình An lúc đầu là
một đơn vị quân đội trú đóng ở khu vực Trường
Công Binh hiện nay (thuộc làng Chánh Hiệp - trước
1975). Trong Hồi Ký của Grammont có đề cập đến đồn
lính nầy nhưng không nói rõ tên.
Đó là một đồn nhỏ có chừng 30-50 lính. Đồn
nầy có thể chỉ được thành lập sau năm 1776 vì
trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn vẫn chưa
được nhắc tới. Họ được canh tác một vùng đất có
diện tích 1 mẫu 2 sào và một khoảnh đất gò.
Vùng đất nầy do đó mang tên của đơn vị quân
đội là An Nhất Thuyền. Từ từ nhân dân quần tụ
thành xóm làng xung quanh căn cứ quân đội
nầy. Theo Địa Bạ Nam Kỳ Lục Tỉnh, địa danh An Nhứt được ghi nhận năm
1836 để chỉ một vùng đất nhỏ có diện tích 1 mẫu 2
sào (cũ). Đó chỉ là vùng đất thực canh
và ghi vào địa bộ, còn khu vực có tên
An Nhất Thuyền (An Nhứt Thuyền) thật ra lớn hơn rất nhiều (từ
sông Sài Gòn lên tới thôn Chánh
An). Qua tới thời Nhà Nguyễn, quân đội được tổ chức
khác đi, thuyền không còn là một đơn vị nhỏ
nhứt và dần dần bị lãng quên vì không
còn ý nghĩa như trước kia. Địa danh An Nhất Thuyền cũng
vậy, với thời gian hơn một trăm năm, người dân ở địa phương quen
dùng các địa danh mới hơn như: Làng Chánh
An, Làng Chánh Hiệp … mà không còn
nhớ tới từ An Nhất Thuyền thuở ban đầu nữa.
(30/5/2013)
Tham Khảo:
1. “Về tên gọi An Nhất Thuyền ở huyện
Bình An, Thủ Dầu Một xưa”, TS Huỳnh Ngọc Đáng.
www.sugia.vn
2. website Lịch Sử Việt Nam:
http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1087&Itemid=5
3. Wikipedia.com:Quân đội chúa
Nguyễn:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Tr%E1%BB%8Bnh-Nguy%E1%BB%85n
4. Wikipedia.com: Nguyễn Hữu Cảnh:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_H%E1%BB%AFu_C%E1%BA%A3nh
5. Phủ Biên Tạp Lục:
www.vietnamvanhien.net/phubientapluc.html
6. Đại cương Lịch sử Việt Nam – Tập 1.
Nhà Xuất bản Giáo Dục – Chủ biên G.S Trương Hữu
Quýnh. Tr 349-352
7. http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1157.0
8.
http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/thu-vien-so-sach-anh-video/tu-sach-van-hoa-hoc/319-trinh-hoai-duc-gia-dinh-thanh-thong-chi-phan-3.html
9. Xứ Đàng Trong - Phan Khoang, nxb. Khai
Trí, 1970, tr.468
10. Tổng kết nghiên cứu địa bạ
Nam Kỳ lục tỉnh, Nguyễn đình Đầu, nxb. HCM, 1994
11. Điạ chí tỉnh Sông Bé,
Nguyễn đình Đầu, 1991, tr.174
12. Onze Mois de Sous-
Préfecture en Basse -Cochinchine, Lucien de Grammont, Challamel
Ainé, Paris, 1863.