Thơ Chữ Hán
GS Trần Anh

****
我 心
身 未 袈裟 魂 向 佛
面 無 目镜 眼 無 冥
功名  辭却  非 思慮
財 祿 不 求 有 静 安
歲月  遠遊 懁 故國
百年  賞玩 的 寻閒
看千 花 木 收 奇 色
見 萬 山林 取得 禪
                  陳 英

       NGÃ TÂM
Thân vị cà sa, hồn hướng Phật,
Diện vô mục kính, nhãn vô minh!
Công danh từ khước phi tư lự,
Tài lộc bất cầu, hữu tịnh an!
Tuế nguyệt viễn du, hoài cố quốc,
Bách niên thưởng ngoạn, đích tầm nhàn!
Khán thiên hoa mộc thu kỳ sắc,
Kiến vạn sơn lâm, thủ đắc”thiền”.
                           TRẦN ANH
Tác giả tự dịch:
        LÒNG TÔI
Chưa mặc cà sa, hồn hướng Phật,
Mặt không đeo kính, mắt tinh tường...
Công danh từ khước lòng thanh thản,
Tiền của chẳng cần, được tịnh an!
Năm tháng chơi xa, luôn nhớ nước,
Ngày dài thưởng ngoạn cốt tìm nhàn...
Ngắm ngàn hoa cỏ thu màu lạ,
Thấy vạn núi rừng giữ tịnh tâm!
                    TRẦN ANH
       (Canada, 15/10/2021)

看 秋
 满 眼 萬 楓 色 轉 紅
凄  凉 閒 景 共 秋風
  紛紜 看 葉 心 思慮
  變化  無常 似 色 空
                      陳 英
            KHÁN THU
Mãn nhãn vạn phong sắc chuyển hồng,
Thê lương nhàn cảnh cộng thu phong.
Phân vân khán diệp tâm tư lự:
Biến hoá vô thường tự “sắc không”!
                           TRẦN ANH
           (Canada, 08/10/2021)
Tác giả tự dịch:
                NGẮM THU
Đầy mắt vạn phong chuyển sắc hồng,
Cảnh nhàn lạnh  lẽo với thu phong...
Phân vân ngắm lá lòng suy nghĩ:
Thay đổi vô thường tựa “sắc không"!
                          TRẦN ANH

草 遊
百步 草 遊 夕映 斜
秋風 音 到 造 輕 波
他方 旅次  心 敲 動
日暮 遠遊  懁 我 家
大 疫 何時 消散  了
越南 彊 盛 太平 和
萋萋 青 草 留 奇 色
糾結 我 心 惆悵  多
                 陳 英

 THẢO DU
Bách bộ thảo du, tịch ánh tà,
Thu phong âm đáo tạo khinh ba!
Tha phương lữ thứ tâm xao động,
Nhật mộ viễn du, hoài ngã gia!
Đại dịch hà thì tiêu tán liễu?
Việt Nam cường thịnh thái bình hoà!
Thê thê thanh thảo lưu kỳ sắc,
Củ kết ngã tâm trù trướng đa...
                       TRẦN ANH
      (Canada, 06/09/2021)

Tác giả tự dịch:
       ĐI CHƠI TRÊN CỎ
Dạo bước cỏ xanh nắng xế chiều,
Gió vàng tạo tiếng sóng đìu hiu...
Xứ người, lữ thứ lòng xao xuyến,
Chiều xuống, nhớ nhà lúc viễn du..
Chẳng biết chừng nào tan đại dịch?
Việt Nam cường thịnh sống an vui!
Cỏ xanh tươi mướt phơi màu lạ,
Bối rối lòng ta, buồn lắm ru!
                         TRẦN ANH

LÝ BẠCH MUỐN ĐỀ THƠ
Hoàng Hạc lầu cao, cảnh tuyệt vời!
Thi tiên Lý Bạch muốn đề thơ...
Ngẩng đầu:lồ lộ thơ Thôi Hiệu,(1)
Nhẫm đọc xong rồi, vứt bút thôi!
Ngửa mặt, chân thành lời thán phục:
"Nhãn tiền hữu cảnh, đạo bất đắc,
 Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu!"(2)
Ô hô! Lý Bạch sao mà tuyệt:
Biết ngẩng cao đầu khâm phục người!
                          TRẦN ANH
        (Canada, 08/08/2020)
(1) Thôi Hiệu: nhà thơ Đường nổi tiếng với bài “Hoàng hạc lâu”:
黃鶴樓 
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
 Phiên âm:
      HOÀNG HẠC LÂU
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!

TẢN ĐÀ dịch thơ:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
TRẦN ANH tạm dịch:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay,
Hoàng Hạc cầu cao vẫn chốn nầy...
Cánh hạc đã đi không trở lại,
Ngàn năm mây trắng mãi còn đây!
Hán Dương cây rạp soi dòng nước,
Anh Vũ cỏ non dày tựa mây...
Dưới bóng chiều, quê hương chẳng thấy,
Trên sông, khói sóng não lòng ai...

(2)Tạm dịch:
“Cảnh đẹp nhãn tiền không tả được:
  Trên đầu, Thôi Hiệu đã đề thơ..."

無題
葉 花 隆 起 满 陳 園
身 在 美洲  眼 看 天
白 影 海 鷗 漂 碧 浪
我 心 輕 動 忽 忘 禪
                        陳 英
Phiên âm:
                VÔ ĐỀ
Diệp hoa long khởi mãn Trần viên,
Thân tại Mỹ châu,nhãn khán thiên...
Bạch ảnh hải âu phiêu bích lãng,
Ngã tâm khinh động hốt vong thiền!
                                    TRẦN ANH
Dịch thơ:
              KHÔNG TỰA
Vườn nhà hoa lá vượt nơi nơi,
Thân ở Mỹ châu, mắt ngắm trời...
Bóng trắng hải âu vờn sóng biếc,
Lòng ta xao động, quên “thiền” rồi!
                               TRẦN ANH
                   (Canada, 03/08/2021)


故 村
我 住 西方 眼 向 東
心 還 故 國 足 其從
今天  輕 雨 和 疏 露
我 意 變 迴 似 色 空
耳 近 鳥 聲 飛 叫 友
眼 前 雨 滴 拂 無 言
遠方  大 疫 遅 消散
惆悵  我 心 還 故村
                       陳 英

          CỐ THÔN
Ngã trú Tây phương, nhãn hướng đông,
Tâm hoàn cố quốc, túc kỳ tòng..
Kim thiên khinh vũ hoà sơ lộ,
Ngã ý chuyển hồi tự sắc không...
Nhĩ cận điểu thanh phi khiếu hữu,
Nhãn tiền vũ tích phất vô ngôn..
Viễn phương đại dịch trì tiêu tán,
Trù trướng ngã tâm hồi cố thôn...                        
TRẦN ANH
(Canada, mùa covid 2020)

Tác giả tự dịch:
       THÔN XƯA
Ta ở trời Tây, mắt hướng đông,
Lòng về quê cũ, bước chân mong...
Hôm nay mưa nhẹ hoà sương mỏng,
Ý tưởng đổi dời tựa sắc không !
Tai rõ tiếng chim bay gọi bạn,
Mắt tường mưa tạt giọt vô ngôn...
Phương xa dịch lớn tan chầm chậm,
Buồn bã, thôn xưa nhớ chất chồng.

一 年 已 過
離別 我 家 過 一 年
心 懷 故 國 是 無邊
春 遊  勝景 魂 惆悵
夏 看 名藍 智 向 禪
秋 到 楓 林 詳 美 葉
冬 閒 踩 雪 步 長 天
百 詩 未 透 心 思虑
大 疫 橫行 人 倒 傎
                  陳 英
NHẤT NIÊN DĨ QUÁ
Ly biệt ngã gia quá nhất niên,
Tâm hoài cố quốc thị vô biên...
Xuân du thắng cảnh hồn trù trướng,
Hạ khán danh lam, trí hướng thiền...
Thu đáo phong lâm tường mỹ diệp,
Đông nhàn thái tuyết bộ trường thiên...
Bách thi vị thấu tâm tư lự,
Đại dịch hoành hành, nhân đảo điên!...
                            TRẦN ANH
               (Canada, 30/03/2021)
Tác giả tự dịch:

MỘT NĂM ĐÃ QUA
Xa cách nhà ta quá một niên,
Nhớ về cố quốc, nhớ vô biên...
Xuân chơi cảnh đẹp, hồn buồn bã,
Hạ ngắm danh lam, trí nghĩ thiền...
Thu đến rừng phong xem lá đẹp,
Đông nhàn, đạp tuyết bước triền miên...
Trăm thơ chưa thấu lòng sâu thẳm,
Dịch lớn hoành hành, người ngã nghiêng..
                         TRẦN ANH


眼 前 满 雪 心 汒 然
大 疫 橫行 人 倒 傎
四海  五洲 皆 惚 慌
隔 離 羣衆 入  門 禪
坐 禪 孤 景 心 淸洁
取 得 安閒  壽 百 年
一 阵 寒風 吹 白 鬂
省 心 忽悟 命 由 天
               陳 英
 NGỘ
Nhãn tiền mãn tuyết, tâm mang nhiên,
Đại dịch hoành hành nhân đảo điên..
Tứ hải ngũ châu giai hốt hoảng,
Cách ly quần chúng, nhập môn thiền!
Tọa thiền cô cảnh, tâm thanh khiết,
Thủ đắc an nhàn thọ bách niên!
Nhất trận hàn phong xuy bạch mấn,
Tỉnh tâm hốt ngộ mệnh do thiên!
                 TRẦN ANH
      (Canada, 21/03/2920)
Tác giả tự dịch:
        BỪNG TỈNH
Tuyết đầy trước mắt, lòng không yên,
Dịch lớn hoành hành, người ngả nghiêng...
Bốn biển năm châu đều hoảng hốt,
Đám đông xa lánh, ở nhà "thiền "...
Ngồi thiền đơn độc, lòng trong sạch,
Giữ được an nhàn, sống bách niên...
Gió lạnh thổi qua làn tóc bạc,
Tỉnh ra chợt thấy “mệnh”: trời truyền!
                  TRẦN ANH
  (Canada, những ngày trốn Covid 19)


****

Bài 1:

楓 林 即 事
儅 職 無 爭是 欲 安
休 時  隐逸 的 閒 人
楓 林 白 髪 常 到 覽
幽僻  敖游 興 倍 份
隔 別 榮華  心  静 潔
無 思 世事  眼  尋 閒
山 林 是旳  蓬萊   景
二 字 功名 易 溺  心

PHONG LÂM TỨC SỰ
Đương chức, vô tranh thị dục an,
Hưu thì, ẩn dật đích nhàn nhân!
Phong lâm bạch phát thường đáo lãm,
U tịch ngao du, hứng bội phần...
Cách biệt ”vinh hoa” tâm tịnh khiết,
Vô tư thế sự, nhãn tầm “nhàn”!
Sơn lâm thị đích bồng lai cảnh,
Nhị tự “công danh” dị nịch tâm!...
                       
(Rừng phong Canada cuối thu 2018)

Tác giả tự dịch:
RỪNG PHONG TỨC SỰ
Đương chức, không tranh muốn được an,
Về hưu, ẩn dật, để thân nhàn!
Rừng phong, tóc bạc năng lui tới,
Vắng vẻ ngao du, hứng  bội phần!...
Xa cách "vinh hoa", lòng tịnh khiết,
Chẳng màng thế sự, mắt tìm “nhàn”...
Núi rừng, chắc chắn là tiên cảnh,
Hai chữ "công danh" dễ đuối “tâm”!
                          
Bài 2:

美 湖 再 到
    受 閒 再 到 美 湖 遊
    满 眼 名 藍 勝 景 余
    落 水 金烏  明 海角
    浮 飛 白 鳥 隐 雲 流
     水 潮 日暮 依 言 到
     守信  黃昏 白 鳥 于
    再 看 美 湖 心 淨 潔
    故 鄉 忽 想 魂 怞怞
                         陳 英
 
MỸ HỒ TÁI ĐÁO
Thụ nhàn, tái đáo mỹ hồ du,
Mãn nhãn danh lam, thắng cảnh dư!
Lạc thuỷ, kim ô minh hải giác ,
Phù phi, bạch điểu ẩn vân lưu...
Thuỷ triều nhật mộ y ngôn đáo,
Thủ tín, hoàng hôn bạch điểu vu...
Tái khán mỹ hồ tâm tịnh khiết
Cố hương hốt tưởng hồn du du...                            
                         
Tác giả tự dịch:
LẠI ĐẾN HỒ ĐẸP
Hưởng nhàn hồ đẹp lại về chơi,
Thắng cảnh danh lam thấy khắp nơi...
Xuống nước mặt trời bừng góc bể
Nhẹ bay chim trắng khuất mây trời
Giữ lời, chiều tới, triều nước lớn,
Y hứa, hoàng hôn, chim trắng về...
Hồ đẹp nhìn thêm lòng tĩnh lặng,
Quê hương  bỗng nhớ, hồn chơi vơi!

Bài 3:

兇 疫
外 看 西 天 雪 落 花
無 人 路 上 有 干戈
遠遊  忽 晤 天災 疫
身 鏁 房 中 时 量 多
自 古 至 今 唯一  見
縱橫  兇 疫 殺 千 家
我 心 求願  如來  佛
掃 疫 扶 人 出 大 痾
                  陳 英
         
HUNG DỊCH
Ngoại khán Tây thiên tuyết lạc hoa,
Vô nhân lộ thượng, hữu can qua?
Viễn du hốt ngộ thiên tai dịch,
Thân tại phòng trung thời hạn đa...
Tự cổ chí kim duy nhất kiến,
Tung hoành hung dịch sát thiên gia!
Ngã tâm cầu nguyện Như Lai Phật,
Tảo dịch, phù nhân xuất đại kha...

 (Canada, 01/04/2020)

Tác giả tự dịch:
DỊCH DỮ
Ngắm tuyết trời Tây hoa tuyết giăng,
Ngoài đường người vắng,  chiến tranh chăng?
Viễn du bỗng gặp thiên tai dịch,
Thân ở trong phòng suốt tháng năm...
Từ xửa tới nay duy nhất thấy,
Hoành hành dịch dữ giết muôn dân!
Lòng ta cầu nguyện Như Lai Phật,
Quét dịch giúp người thoát bệnh nan!

Bài 4:

TRỜI TÂY NHỚ MẸ
Hình ảnh mẹ iPhone mở tới,
Lòng đong đầy vời vợi nhớ thương!
Nước sâu người bảo sông Tương?!(1)
Lòng ta nhớ mẹ như Trường giang xưa...
Hôm nay viễn xứ trời mưa,
Mẹ ơi con thấy đu đưa nỗi buồn,
Lòng con xao xuyến bồn chồn,
Nhớ mẹ, nỗi nhớ dập đồn thắt tim...
Xưa họ Địch lặng im hoài mẫu,
Nhìn bạch vân thấp thoáng nhà người...(1)
Nay Bắc Mỹ mưa buồn con nhớ,
Nhà mẹ hiền rạng rỡ phía đông,
Mắt người đang ngóng trông con,
Còn con viễn xứ chờ mong ngày về...

 (Canada, mùa Covid 2020)
(1) Địch Nhân Kiệt, người đời Đường, đi đánh giặc xa nhà, lúc trên núi Thái Hàng 太 行 trông đám mây trắng ở xa, nhớ mẹ, nói với quân sĩ: 吾 親 舍 於 其 下 : Ngô thân xá ư kỳ hạ (nhà mẹ ta ở dưới đám mây trắng kia). Nên có bài thơ:
望白雲  
悠悠親舍白雲飛,
回首天涯動所思。
千里家山雙眼斷,
百年母子一心悲。
沾襟自信鮫珠落,
戲彩誰娛鶴髮垂。
忠好古來難兩立,
此懷分付彼蒼知。

Phiên âm:
Vọng bạch vân
Du du thân xá bạch vân phi,
Hồi thủ thiên nhai động sở tư.
Thiên lý gia san song nhãn đoạn,
Bách niên mẫu tử nhất tâm bi.
Triêm khâm tự tín giao châu lạc,
Hí thái thuỳ ngu hạc phát thuỳ.
Trung hiếu cổ lai nan lưỡng lập,
Thử hoài phân phó bỉ thương tri.
 
Dịch nghĩa
Ngóng mây trắng
Cuồn cuộn mây trắng bay nơi nhà của cha mẹ,
Ở nơi chân trời nghoảnh lại, động lòng nhớ nhung.
Quê hương xa nghìn dặm không nhìn thấy được,
Tình mẹ con suốt trăm năm nặng lòng thương xót.
Vẫn tin là nước mắt của Giao nhân thấm ướt áo biến thành châu ngọc,
Ai là người mặc áo năm sắc, làm cho người tuổi hạc được vui vẻ,
Từ xưa đến nay, bề trung hiếu khó vẹn cả hai,
Tấm lòng này xin phó thác cho Trời xanh biết vậy.

Dịch thơ:
Cuồn cuộn mây trắng bay,
Góc trời, ngoái đầu, nhớ...
Xa trông chẳng thấy nhà!
Tình mẹ, dài trăm năm...
Đẵm lệ, áo thành ngọc,
Áo ngũ sắc, vui già,
Trung hiếu tròn, mãi khó!
Lòng ta, trời hiểu thay!...

TRẦN ANH