Thỉnh Tào Kê

Huỳnh Hoàng Anh


1.    Thỉnh Tào Kê:

Từ nửa thế kỷ trước, trong một truyện ngắn của mình, nhà văn Bình Nguyên Lộc đã viết: “Trăng rằm tháng giêng đã ló dạng trên dãy phố ở tỉnh lỵ Thủ Dầu Một. Hôm ấy là ngày, theo tục lệ người tàu trong tỉnh, Thỉnh Tào Kê. Không ai biết rõ “Thỉnh Tào Kê” là cái quái gì”. (Bình Nguyên Lộc, Người tài xế điên, Tuyển tập BNL, nxb. Văn Học, 2001, tr.793, 794). Là một nhà văn Nam kỳ rất nổi tiếng, ông còn là nhà nghiên cứu về ngôn ngữ, về dân tộc học với nhiều tác phẩm biên soạn rất công phu, nghiêm túc. Bình Nguyên Lộc lại có thời gian sống và làm việc ngay trên đất Bình Dương mà ông còn bảo không ai biết “Thỉnh Tào Kê” là cái gì, thì nói chi khách bàng quan khác.
Đó là vì số đông chúng ta thường có thói quen coi như mặc nhiên điều gì nghe nhiều người nói, mà ít khi thắc mắc tại sao. Đến khi có người bất chợt hỏi, nhất là những câu hỏi của trẻ con, thì mới chưng hửng ra, không biết ăn làm sao, nói làm sao!
Theo giải thích của một lão niên người Hoa hiện đang sống tại đường Lý Thường Kiệt, chợ Thủ Dầu Một, thì cụm từ ấy là tiếng Triều Châu và có nghĩa là “Mời Ông Chủ”. Ngữ cảnh xuất hiện câu nói ấy như sau:
“Mỗi năm, ở chợ Thủ chùa bà Thiên Hậu, sáng ngày rằm 15 tháng giêng, có tổ chức đấu giá thầu 9 hoặc 12 ngọn lồng đèn Hanh Thông Lợi Trinh. Những người đạt sĩ hào khách từ các nơi khác đến, trước để dâng hương bà, cầu cho quốc thới dân an, sau là mong thầu cho được ngọn lồng đèn bình an, thịnh vượng”.
“Còn như trong khi kêu giá, người đầu tiên nêu giá. Ban tổ chức sẽ kính mời người thứ hai, mà trong kính trọng xưng hô, thì gọi là Thỉnh Tào Kê (ý mời Ông Chủ). Đó là tiếng người Triều Châu, người thứ hai mới đứng dậy để nêu giá thêm, rồi đến người thứ ba, thứ tư, sau rồi ban tổ chức mới đếm: một, hai, ba tiếng. Quyết định xong thì ngọn lồng đèn đó mới trao người ra giá cao nhứt, tuần tự đến hết, thì lễ đấu thầu lồng đèn mới chấm dứt.
Lệ thầu lồng đèn đã có từ Ông Bà xưa truyền lại đến hiện tại ngày nay.”
“Mà tại sao những người hảo tâm nhân sĩ đó nhiệt tình bỏ số tiền lớn như vậy để được lồng đèn, có hai nguyên nhân: một là cầu Bà phù hộ bình an thịnh vượng cho gia đình, hai là số tiền ấy với mục đích là giúp người Hoa địa phương đó có phương tiện để xây trường học để giáo dục con em, sau này trở thành người có ích cho xã hội ngày càng tiến bộ. Số tiền của họ đóng góp đây là biết bao gian khổ, cần kiệm, cố gắng làm việc, mua bán mà có, nhưng vì chữ nghĩa, tương lai của con cháu, nên những người ấy sẵn sàng cống hiến mồ hôi, nước mắt mà người ta dành dụm được, để con cháu họ sau này có cuộc sống ấm no, tương lai sáng lạng. (Giang Khánh Phong thư riêng cho tác giả, ngày mồng một tháng hai năm Tân Mão)*
Giá tiền cuối cùng của từng lồng đèn của người thắng cuộc có thể rất cao, có khi lên đến hàng trăm triệu, cao gấp nhiều lần giá trị thực của mỗi cái. Người tham gia cuộc đấu giá do vậy phải là những tay đại gia hào hiệp, bởi ngoài lý do tín ngưỡng, thì đây còn là việc làm nhằm mục đích từ thiện, thể hiện tinh thần đoàn kết và đóng góp vì lợi ích cộng đồng của những người Hoa sinh sống tha hương tại địa phương. Mỗi lần mời gọi xướng lên giá mua, ngày xưa nói “Thỉnh Tào Kê”, như vậy là cách mời mọc trang trọng, vừa khuyến khích người ta tiếp tục đua tranh không bỏ cuộc, bởi càng theo, thì giá đương nhiên càng cao, tiền gây quỹ càng nhiều và buổi đấu giá càng hào hứng hơn, lôi cuốn người coi cổ vũ đông hơn.
Một vài tác giả đã viết về buổi đấu giá này như sau:
1.“Có đến 12 đèn lồng tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Những chiếc đèn lồng to được tạo tác công phu và mỹ thuật. Mỗi đèn đều có câu thơ khác nhau tạo thành một hàng dài trước sân chùa đập vào mắt người xem hội rất ấn tượng.” (Nguyễn Thị Lan, Miếu Thiên Hậu (chùa Bà), Một tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương, tập san Khoa học lịch sử Bình Dương số 4, 2005,  tr. 26 )
2.“Ngoài ra, theo lễ hàng năm, miếu Bà có sản xuất độ 15 cái đèn lớn để cúng Bà và số đèn này được đưa ra đấu giá, số tiền có được sẽ sung vào công quỹ của miếu.”
3.“Khi chiếc lồng đèn cuối cùng được gỡ xuống, cuộc bán đấu giá lồng đèn kết thúc thì đoàn lân-sư-rồng, hẩu và bộ tứ thầy trò Đường Tăng trong Tây du ký từ phía cửa tam quan tiến vào sân chùa chúc Bà trong tiếng trống, nhạc, phèng la không dứt. Chiều cùng ngày, lễ rước bà bắt đầu”. (Địa chí Bình Dương, tập 4, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, tr.107)
4.”Sau khi chiếc lồng đèn cuối cùng được trao cho người thắng cuộc đấu giá, các đội múa Lân, Cù, Rồng, Sư Tử, Hẩu kéo vào sân chùa múa chúc tụng Bà. Và cùng các đoàn biểu diễn “Tam Tạng”, “Bát Tiên” chuẩn bị tham gia diễn hành.” (Nguyễn Hiếu Học, Dấu Xưa Đất Thủ, Nxb. Trẻ TP. Hồ Chí Minh, tr.130)
Các đoạn văn trên có điểm không thống nhất nhau về số lượng và ý nghĩa của lồng đèn. Người thì nói 15, kẻ thì 12, kẻ thì 8 hay 9. Vì nêu số lượng là 12, nên lại suy đoán là chúng tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Người khác nói chúng tượng trưng cho những điều cát tường, nhưng thay đổi theo từng năm như: Hợp Gia Bình An, Sanh Ý Hưng Long, Bộ Bộ Cao Thăng, Phước Thọ Khương Ninh, Cát Tường Như Ý…
Đọc thấy rối rắm như vậy, chẳng biết đâu mà rờ, muốn biết thực hư lẽ nào, chỉ có nước phải tới coi tận mắt một bữa thì may ra.
Tại buổi lễ bán đấu giá lồng đèn ở sân chùa Bà vào ngày rằm tháng giêng năm Nhâm Thìn (2012), người ta có dựng tạm một cái nhà dựa lưng vào cổng chính làm nơi tổ chức. Bên ngoài có treo mấy tấm băng rôn ghi hàng chữ Hoa cho biết nơi đấu giá, bên trong treo chín cái lồng đèn màu sắc rực rỡ, quan khách ngồi thành mấy hàng phía sau. Lễ này, được gọi là lễ hội Thánh Đăng. Một tác giả viết:
“Giá trị của đèn lồng cao hay thấp tuỳ thuộc vào kích thước nhỏ hay lớn và quan trọng là câu chúc được in trên đèn lồng.” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 199)

 
Đấu giá lồng đèn trong lễ hội chùa Bà BD

Thực tế, các lồng đèn này đều có hình dáng và kích cỡ như nhau, chỉ có các câu chúc là khác. Thời xưa, có 12 cái, tượng trưng cho 12 tháng trong năm với những ý nghĩa đem đến điều kiết tường. Trong vài năm gần đây, số lượng giảm còn 9 cái cho phù hợp với tình hình thực tế của buổi đấu giá. Chín cái lồng đèn này có các tên như:
1.    Thuận buồm xuôi gió
2.    Kim ngọc mãn đường (vàng bạc đầy nhà)
3.    Tài nguyên quãng tấn (những ai kinh doanh về bất động sản chuộng lồng đèn này)
4.    Tứ quý hưng long (bốn mùa hưng thịnh)
5.    Ngũ phước lâm môn (năm điều phúc vào nhà, câu hay dán trước cửa nhà)
6.    Thánh mẫu tứ phúc (Thánh mẫu ban phước)
7.    Hợp gia bình an (cả nhà bình an)
8.    Vạn sự thắng ý (mọi sự như ý)
9.       Buôn bán hưng thịnh (mua may bán đắt)
Sau phần nghi lễ, buổi đấu giá được tiến hành rất sôi nổi. Chiếc lồng đèn đấu giá đầu tiên có tên là “Thuận buồm xuôi gió”, có giá khởi điểm là 1.800.000, giá cuối cùng thắng cuộc là 339.000.000 triệu đồng. Đây cũng là số tiền cao nhất trả cho một cái lồng đèn năm này (2012). Những người đứng coi vây quanh bên ngoài rạp, hồi hộp trầm trồ theo từng con số tiền được nêu cao mãi lên.
Khi buổi đấu giá kết thúc thì mặt trời đã đứng bóng, ai nấy mồ hôi nhễ nhại, bụng thì vừa đói, vừa khát, đợi mãi nhưng không thấy có cảnh đoàn cù, sư, rồng, hẩu hay thầy trò Tam Tạng với tiếng phèng trống hộ hoạ như vài bài báo đã viết. Ai nấy vội vã ra về lo bữa cơm trưa cho no cái bụng mà chuẩn bị cho buổi lễ quan trọng hơn vào lúc chiều nay: Lễ Cộ Bà.

2.    Lễ Cộ Bà

Phần chính của rằm tháng giêng được chờ đợi nhiều nhất là lễ Cộ Bà, diễn ra vào buổi chiều. Người Bình Dương xưa nay vẫn quen gọi đơn giản là Cộ Bà, như họ nói “cộ đèn” vào dịp tết Trung Thu. Trên sách báo, nhiều tác giả viết về lễ này nói văn chương hơn như “lễ rước kiệu Bà” hay “lễ rước cộ Bà” khiến nhiều người thắc mắc không biết cái nào là đúng hơn. Có người giải thích “cộ” là do nói trại từ “kiệu” mà ra. Nghĩ như vậy là vì trong đám rước này người ta có khiêng một cái kiệu, trên để bài vị lư hương của Bà.
Hai từ này, thực ra có nghĩa khác nhau. Nếu như “kiệu” tương đối quen thuộc, dễ hiểu; chữ “cộ” lại có khá nhiều cách giải thích.
Tra trong “Từ điển Từ Ngữ Nam Bộ” của Huỳnh Công Tín, không có mục từ “cộ”.
Trong “Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ” của Nguyễn Văn Ái, mục danh từ “cộ”, giải thích như sau: Xe quệt, trâu kéo cộ. Một cộ lúa
Trong “Tầm Nguyên Từ Điển Việt Nam” của Lê Ngọc Trụ, (nxb.Thành Phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.263) viết: Cộ, chưng cộ, chưng bày những đồ cổ vào dịp lễ lớn, cộ đèn.
Theo cách giải thích này, cộ có nghĩa là dịp lễ lớn, như cộ đèn, khi trẻ con cầm lồng đèn đi thành hàng dài trong đêm Trung Thu.
Ngoài các nghĩa trong sách vở nêu trên, cộ còn chỉ cộ bông, chiếc xe trang trí bông, đèn, chạy trong đoàn diễu hành, hình ảnh thường thấy trong lễ hội của đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Có nơi, như Phan Thiết, cũng gọi lồng đèn, cây lồng đèn là cộ đèn.
Qua các dẫn giải vừa trình bày, ta có thể nói rằng cộ là một buổi lễ có đám đông người đi diễu hành trên đường phố. Vậy “cộ Bà” là cách nói đúng của người Bình Dương từ ngày xưa cho buổi lễ này, chứ không phải là cách phát âm sai của từ “kiệu” mà ra.
Một vài vấn đề nữa được đặt ra là tại sao ở mọi nơi thờ bà Thiên Hậu đều cúng vía Bà tại nơi thờ tự vào ngày 23 tháng 3 âm lịch thì tại Bình Dương lại có lệ rước kiệu Bà và lại tổ chức vào ngày rằm tháng giêng? Tại sao chùa Bà tại xã Phú Cường được chọn là nơi tổ chức chính cho lễ cộ?
Điều này có liên quan đến lịch sử hình thành của cộng đồng người Hoa sinh sống tại Thủ Dầu Một từ hồi xưa. Chùa Bà tại đây được chọn như ngôi “chùa Tổ”, vì người ta cho rằng đó là nơi thờ bài vị của Bà từ đền thờ bên Trung Quốc mà những người Hoa thuộc những thế hệ đầu khi sang đây lập nghiệp đã mang theo. Để đặt chân tới được vùng đất này, nhiều người phải đi trên những chiếc thuyền thô sơ vượt trùng dương đầy sóng to gió lớn, xiết bao gian lao nguy hiểm. Khi ấy, họ đã van vái cầu xin sự cứu giúp của vị thần biển là Bà Thiên Hậu như là niềm trông cậy duy nhất. Thời gian sau, người Hoa sang đây ngày càng nhiều, cùng với thế hệ con cháu của họ dần dần sinh sống ổn định, làm ăn phát đạt trên vùng đất mới, họ có niềm tin rằng đó là nhờ sự che chở và ban phước lộc của Bà. Để tạ ơn Bà, vào mùa xuân, sau một năm làm ăn thắng lợi, sung túc, mọi người đều vui vẻ, phấn chấn và có thời gian rảnh rang ngơi nghỉ để chuẩn bị cho một năm làm ăn mới, người ta rước Bà đi du xuân. Đó là dịp để Bà thưởng ngoạn cảnh đẹp của trăng rằm nguyên tiêu, vừa để chứng kiến sự hạnh phúc của những người Bà đã che chở, là dịp cho mọi người bày tỏ lòng tôn kính và tạ ơn Bà, vừa cầu nguyện Bà tiếp tục phù hộ họ khởi đầu một chu kỳ làm ăn mới.
Rằm tháng giêng, còn được gọi Tết Nguyên Tiêu, là một lễ hội có truyền thống lâu đời của người Trung Quốc. Đọc các tác phẩm cổ văn Trung Quốc ta thường thấy đề cập đến lễ tết đặc biệt này, như Tây Du Ký, Kim Bình Mai có tới mấy lần nói đến:
“Lúc đó là Tết Nguyên Tiêu, dân chúng vui chơi suốt đêm, đèn đuốc sáng rực. Ở tại nhà, Tây Môn Khánh cũng cho dọn tiệc lớn. Mọi người mặc áo gấm thêu, trang điểm lộng lẫy, phân ngôi thứ mà ngồi”
(Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh, Kim Bình Mai, quyển I, Nxb. Đồng Nai, 2002, tr.207)
Năm khác, lại cũng vào dịp này:
“Lát sau, trời chạng vạng tối. Tây Môn Khánh sai dọn tiệc ở đại sảnh, đốt các thứ đèn lồng trong ngoài rồi cho gọi Phó quản lý, Hàn quản lý, Văn chủ quán, Bôn Tứ và Kính Tế tới cùng uống rượu xem đèn thưởng xuân.
Tối hôm đó, trời sáng trong, gió thổi nhẹ, vầng trăng lơ lửng bên trời, ngoài đường thiên hạ đổ ra chen chúc chơi xuân. Tây Môn Khánh sai người thả đèn hoa, rồi hạ lệnh đốt các loại pháo bông, pháo thăng thiên và các loại pháo nổ khác”. (Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh, Kim Bình Mai, quyển II, Nxb. Đồng Nai, 2002, tr.150)
Việc người Hoa ở địa phương chọn đêm rằm tháng giêng để rước Bà du xuân, là chọn thời điểm thích hợp nhứt, theo truyền thống văn hoá đã lâu đời của họ. Do vậy lễ cộ bà ở Bình Dương là lễ rước bà đi du xuân chứ không phải là lễ vía như một vài tác giả đã viết. Trên tấm bảng đi đầu đoàn rước cộ có ghi hàng chữ nói rõ ý nghĩa buổi lễ này: “Bốn bang người Hoa thị xã Thủ Dầu Một Cung Nghinh Thánh Giá Thiên Hậu Thánh Mẫu Xuất Du Thịnh Hội”
Tại các ngôi chùa Bà trong tỉnh như ở Lái Thiêu, Bưng Cầu, Dầu Tiếng cũng có lễ cộ, nhưng quy mô nhỏ hơn và thời gian cũng khác nhau. Đúng ngày 23 tháng 3 tại chùa vẫn làm lễ cúng vía Bà với sự tham dự hạn chế của bốn bang người Hoa trong ban quý tế. Đặc biệt tại ngôi chùa Bà cổ hơn ở phường Chánh Nghĩa thì hôm đó mới là ngày cúng chính.
Ngày lễ cộ Bà, lại trùng hợp là rằm thượng ngươn, một rằm lớn theo như tín ngưỡng của Phật giáo, các Phật tử sùng đạo vừa đi chùa, vừa đến cúng Bà. Từ đó, lễ hội chùa Bà ngày càng trở nên đông đúc, và việc đi chùa Bà hay tham dự lễ rước cộ đã trở thành nếp sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng chung cho cả nhiều tộc người trên đất Bình Dương.

Vào dịp đi lễ này, tại chùa còn có lệ cho vay và trả tiền, gọi là đi vay để “hưởng lộc Bà”, hay “lấy hên làm ăn”. Người vay, không cần bất cứ giao kèo hay hợp đồng gì, sang năm, nhớ ngày đến trả lại tiền vay cũ, thường thì trả nhiều hơn, nhiều bao nhiêu tuỳ mỗi người. Ai không trả thì cũng không sao. Với người Hoa gốc Quảng Đông, Triều Châu, Quảng Tây, Phước Kiến, Hải Nam thì thường trả lễ cuối năm vào tháng chạp, riêng người Hẹ thì trả vào rằm tháng 11. Dần dà, thì người ta đều mượn và trả trong dịp rằm tháng giêng cả nên ngày đó tại nơi mượn tiền người chen chúc khá đông.
Đến nay thì không còn ai biết rõ lễ cộ Bà do ai khởi xướng, bắt đầu từ khi nào, nhưng căn cứ vào thời điểm năm chùa Bà được xây cất là 1923, cùng với việc chợ Thủ Dầu Một và hệ thống đường sá quanh chợ được khởi công xây dựng lại khang trang rộng rãi hơn và hoàn thành vào năm 1934, thì có thể suy đoán rằng lễ cộ bà đã bắt đầu có từ thập niên hai mươi, hay ba mươi trở đi.
Lễ Cộ Bà thời nay thường khởi hành vào khoảng 3 giờ chiều, do thành phần tham gia trong đoàn như các đội cù, rồng… ngày càng nhiều quá, nên nếu xuất phát trễ sẽ không kịp giờ. Thời xưa, đúng ý nghĩa và tính chất ban đầu của việc rước Bà đi du xuân trong đêm Nguyên Tiêu, người ta khởi hành muộn hơn, khoảng 6, 7 giờ tối, khi trăng đã bắt đầu ló dạng trên bầu trời chợ Thủ. Để thấy đường, người ta cầm đuốc hoặc những cây tre cao, trên đầu có cột cây đèn măng xông.
Thành phần của đoàn rước cộ tuy có ít nhiều thay đổi theo từng năm nhưng vẫn có quy tắc tổ chức chung được duy trì từ xưa tới giờ. Điểm chính của buổi lễ là chiếc kiệu có bàn thờ bài vị của Bà, được đi giữa đoàn diễn hành. Ngoài ra, tham dự còn có các đoàn hẩu, cù, rồng, sư tử, các ban nhạc, đoàn gánh hoa, cờ, các tiên nữ, nhóm người cầm các loại binh khí, các xe cộ chở Phật Bà, tiên ông, tiên bà, tiên đồng, ngọc nữ, thầy trò Tam Tạng, Bát tiên… Mỗi bang người Hoa đóng góp vào lễ hội đặc điểm riêng của mình. Như các đoàn cù hay rồng của Quảng Đông, hẩu của người Phước Kiến… Nhờ vậy mà các tiết mục của đoàn cộ rất phong phú, đa dạng, đẹp mắt…

Đi đầu đoàn cộ có các đội xe mô tô, xe jeep hú còi inh ỏi mở đường. Kế là hai người cầm tấm bảng vải màu đề 4 chữ “Thiên Hậu Xuất Du”. Ngày nay có xe hơi, người ta treo hai tấm vải bên hông chiếc xe trang trí rực rỡ. Như năm 2012 vừa rồi, hàng chữ ấy là:“Bốn Bang Người Hoa Thị Xã Thủ Dầu Một. Cung Nghinh Thánh Giá Thiên Hậu Thánh Mẫu Xuất Du Thịnh Vượng Hội”.
Kế tiếp là đội múa sư hẩu của người Phước Kiến. Theo truyền thuyết, hẩu là con linh vật có chức năng đi tiên phuông để mở đường. Giải thích việc này, có tài liệu viết: “Về thứ tự trong đội hình đám rước, theo tín ngưỡng của Đạo giáo, không biết nguồn gốc từ đâu, các Hội người Hoa ở Bình Dương đều xác định mỗi nhóm ngôn ngữ đều mang cốt một con vật. Người Phúc Kiến cốt con hổ, Triều Châu cốt con ngựa, Quảng Đông cốt con dê và Sùng Chính cốt con chó. Vì vậy mà khi xếp đội hình rước kiệu Bà thì nhóm Phước Kiến luôn đi đầu, đặc biệt là con lân (hẩu) được xem là một linh vật mở đường. Vì người Hoa cho rằng hổ đi sau sẽ ăn thịt những con vật dê, chó, ngựa. Nếu nhóm Phúc Kiến đi sau thì người Hoa ở các nhóm khác sẽ không được thuận lợi trong công việc làm ăn”. (Nhiều tác giả, Người Hoa Ở Bình Dương, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2012, tr.320)
Để biết rõ thêm về sự tích hẩu, xin đọc tiếp bài nói về con hẩu của cùng tác giả bài viết này.
Sau Hẩu là các xe hoa, rồi đồ binh khí, bát bửu, những tấm bài đề Túc Tĩnh, Hồi Tị. Sau họ, là nhóm khiêng giá vũ khí Thập Bát Ban Võ Nghệ. Ngày nay còn có thêm đội kèn Tây mặc đồng phục, thổi kèn đánh trống rất xôm tụ, người nhạc trưởng đi đầu vừa đi vừa ném cây gậy cho xoay tuýt trên cao, đợi rơi xuống rồi chụp ngay bon để biểu diễn.
Kế đến là đoàn cù Nhân Nghĩa Đường của người Quảng Đông từ Chợ Lớn lên, đoàn lân này được vinh dự dẫn đầu vì, cùng với Quốc Oai Đường, là những đoàn cù lâu đời nhất đã có mặt trong lễ cộ ở chợ Thủ từ hồi xưa tới giờ. Mãi đến năm 1951, tại Thủ Dầu Một mới có đoàn cù Chấn Nghĩa Đường do ông Cam Xú lập ra (còn gọi Tài Xú, nhà ở khu Lò Heo, người Quảng).
Từ khoảng năm 1968 trở đi, bang Phước Kiến còn đóng góp thêm nhóm người đi cà khêu, trong trang phục của thời xưa như các vị tiên ông tiên bà trong truyện Bát Tiên Đông Du. Sự góp mặt của họ làm tăng thêm sự thích thú cho người coi vì nét ngộ nghĩnh và màu sắc sặc sỡ trên quần áo của các vị giả tiên. Lại có đủ bộ thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, nhóm này của chùa ông Tề, tức Linh Không Đàn ở cầu Bà Hên.
Trước kiệu bà là đoàn người thuộc bang Triều Châu. Năm người thanh niên cầm cờ dẫn đầu gọi là Ngũ Long Kỳ, rồi đến đoàn khá dài các cô gái trong vai tiên nữ gánh cờ, gánh bông; trẻ con thì cầm quả, bánh, pháo (thời chưa bị cấm), đoàn cổ nhạc bát âm Hoà Mục Hiên.
Chiếc kiệu Bà được nhiều thanh niên khiêng, trước bài vị có để lư hương cắm nhang, thỉnh từ bàn thờ Bà ở chùa ra. Thời xưa, người ta lập bàn hương án với lễ vật cúng trước cửa nhà, khi kiệu Bà đến phải ráng cắm nhang lên lư hương này cho bằng được, đồng thời thỉnh nhang từ chiếc lư hương của Bà về cắm ở bát nhang nhà mình trên bàn thờ. Nhà nào năm trước xui thì phải cắm 1 bó nhang thiệt to vào lư rồi đổi 1 hoặc 3 cây nhang về cắm lư nhà mình.
 
Sau kiệu Bà, đoàn Quảng Đông đi sau hộ giá với các đội múa cù, sư tử, rồng, phụng. Mãi đến khoảng năm 1985 thì mới thấy có các đoàn rồng, sư tử từ Sài Gòn về gia nhập lễ, và càng ngày các đoàn càng đông hơn. Hồi xưa chỉ có cù, khoảng chục con đã kể là nhiều chứ không phải lên đến vài chục con như ngày nay. Trên đường đi, họ thường đồng đồng hai hoặc ba người để múa biểu diễn. Hồi trước thì người ta vác hai cây tre dài đi song song, cù và ông Địa đứng trên hai cái cây này, vừa múa vừa làm trò, thỉnh thoảng ông Địa giả đò té lọt xuống giữa hai cây tre, nhờ nhanh tay kẹp hai cây tre tòn ten, chứ nếu không thì rớt xuống đất, làm người coi giật mình và được phen cười ồ khoái trá lắm.
Thời xưa, khi đoàn cộ đi dọc bờ sông đến ngã ba Nguyễn Tri Phương và đường Bàu Bàng thì tách ra làm hai, người Phước Kiến và Triều Châu với hẩu và dàn nhạc bát âm đi thẳng về ngôi chùa cũ nằm ở bên kia cầu Thủ Ngữ, còn người các đoàn cù của người Quảng Đông và người Hẹ đi theo đường Bàu Bàng ra đường Văn Công Khai (trước đây là Võ Tánh), quẹo đường Hùng Vương đi ngang chùa Ông (chùa Con Ngựa) để sau đó về chùa Bà ở đường Nguyễn Du. Về sau thì bốn bang người Hoa cùng nhập chung một đoàn đi từ đầu đến cuối chứ không chia ra như vậy nữa

Có tài liệu viết:
“Khi cộ Bà qua khỏi thì chủ nhà cho đốt pháo (đó là tập tục cũ trước khi có chỉ thị cấm đốt pháo)” (Nguyễn Thị Lan, Miếu Thiên Hậu (chùa Bà), Một tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương, tập san Khoa học lịch sử Bình Dương số 4, 2005,  tr. 26, )
Đốt pháo là phần không thể thiếu trong rằm tháng giêng thời xưa. Trước đó mấy ngày, cứ chỗ nào có cù múa, thì ngoài tiếng trống thúc giục giòn giã, chủ nhà cho đốt từng tràng pháo dài phụ hoạ thêm cho sôi nổi. Vào ngày lễ cộ, hai bên đường phố chợ người ta treo những dây pháo dài lủng lẳng, có dây dài từ trên lầu cao xuống tới đất. Người ta đốt pháo để kích thích các con cù múa hăng hơn, nhưng phần pháo chính là để dành đón kiệu Bà. Hoà trong tiếng trống múa cù rộn ràng thôi thúc, từng tràng pháo thi nhau nổ toả khói mù mịt, thơm phức, làm cho không khí ngày lễ thật sôi động, lòng người phấn khích cao độ ít khi nào có được. Từ khi kiệu bà sắp đến cho tới khi kiệu đi qua, pháo nổ để đón rồi sau đó là tiễn Bà, nhà này kế tiếp nhà kia nên pháo nổ liên hồi gần như không dứt. Ở Bình Dương thưở xưa, lễ rước kiệu Bà cũng là cơ hội để các người Tàu đua nhau đốt pháo. Tập tục này tạo thành những hình ảnh của kỷ niệm lắng đọng khá sâu trong lòng những người Bình Dương thời trước. Là một người từng có thời gian sống ở chợ Thủ thời xưa, nhà văn Bình Nguyên Lộc đã lấy việc này dựng thành một câu truyện ngắn của ông:
“Trăng rằm tháng giêng đã ló dạng trên dãy phố ở tỉnh lỵ Thủ Dầu Một. Hôm ấy là ngày, theo tục lệ người Tàu trong tỉnh, thỉnh Tào Kê. Không ai biết rõ “thỉnh Tào Kê” là cái quái gì. Nhưng chắc chắn là cúng nhiều, kéo nhau đi ngoài đường nhiều và “cái đinh” của ngày lễ là đốt pháo đua. Ông cắc chú nào đốt nhiều hơn ông khác là ăn. Không ăn cái gì hết, nhưng được đồng bào của họ phục lắm.
Thật ra chỉ vài ông bang trong tỉnh lỵ mới dự cuộc đua đốt pháo này, vì phải đốt hàng mấy giờ liền, nếu không làm ăn lời to thì đừng mong đua với ai.
Thình lình người ta nghe ba tiếng đại pháo nổ trước sau nhau không quá hai giây.
-    À, ra họ đốt một lượt!
Trong những con đường hẹp ở chợ, hai bên đều có nhà phố đứng lên, tiếng pháo bị tiếng dội đôi dồn như tiếng sấm trong thung lũng. Khói thuốc pháo bay mù trời mịt đất, đến đỗi ánh sáng của những bóng đèn đường bị lu mờ bớt lần. Những người đi dạo phố, những khách trong tiệm ăn, muốn nói chuyện với nhau phải hét cho lớn, và kề miệng sát vào tai người nghe mà la. Nhưng không mấy ai còn ở trong nhà, trong tiệm được, vì khói thuốc vào đó, không lối ra, đầu độc cả không khí trong nhà.
Pháo vẫn nổ rền trời.
Mỗi người dự đua, sợ rủi ro ngưng tiếng nổ rồi mang tiếng ăn gian, để ra tới bốn người đốt pháo. Năm ấy có ba ông bang thi đua, thành ra một lượt, đến mười hai tiếng pháo kêu vang.
Những người có con nhỏ, phải mau mau ẳm chúng đi thật xa ra ngoại ô, không khéo thì chúng sẽ bị động kinh hay bị chết ngất mất.
Pháo thi đua nhau mà nổ đinh tai, nhức óc.”
(Bình Nguyên Lộc, Tuyển tập BNL, nxb. Văn Học, 2001, tr.793, 794)
Trong một bài viết khác, năm 1974, dành riêng cho đặc san của ty Giáo Dục Bình Dương, ông vẫn còn nhắc lại sự kiện này:
“Hồi tiền chiến, tỉnh Bình Dương là tỉnh nổi danh nhứt miền Nam về trò chơi pháo. Hằng năm cứ vào dịp rằm tháng giêng thì người Hoa Kiều (Thưở đó chỉ có Hoa kiều mà chưa có người Việt gốc Hoa như nay) họ tổ chức thi đua đốt pháo. Dĩ nhiên là chỉ có mấy ông nhà giàu mới dự thi, nhưng dân chúng vẫn cứ xem đó là trò vui chung của toàn tỉnh lỵ”. (Bình Nguyên Lộc, Pháo và Súng, Đặc san xuân Ất Mão tỉnh Bình Dương, 1974).
Sau khi kiệu Bà đi qua một quãng, mặc dù các đoàn cù và rồng vẫn còn đi hộ tống rất nhiều phía sau, đám đông chen lấn hai bên đường từ trưa cũng tản dần ra để trở về nhà. Bến đò đông nghẹt người chờ đò để qua sông. Trên đường, xác pháo, xác giấy bánh kẹo đủ màu nằm vương vãi khắp nơi. Những ngày vui xuân đã thật sự kết thúc, ngày mai, với người dân chợ Thủ, lại khởi đầu cho một năm mới tần tảo  làm ăn. Để rồi, chờ đợi một mùa xuân sau sẽ đến, rồi lại rủ nhau đi coi múa cù, rước cộ bà, rộn ràng trong tiếng trống, tiếng phèng la… Bầu trời chiều ngả sang màu vàng nhạt, đó đây những cánh diều nhiều màu sắc đang nằm tha thướt, bay lượn trên cao. Trời gió lộng, nhưng nhìn những cánh diều trong bóng hoàng hôn vẫn gợi lên một nỗi buồn nhè nhẹ. Như vẫn còn tiếc nuối những ngày vui đã trôi qua…
Sau 1975, lễ cộ bà gián đoạn một thời gian đến năm 1979 mới tổ chức lại. Đó là điều đáng mừng làm sao, bởi với người dân Bình Dương, sau gần một thế kỷ thân quen, nếu thiếu lễ cộ Bà chắc họ sẽ nghe thiếu nhiều lắm./.