Sự ra đời,
biến mất, rồi lại tái xuất hiện của một ngôi trường
Nguyễn Phạm
Tựa đề bài viết này
có phần dông dài nhưng có như vậy mới
nói lên được số phận long đong của một ngôi trường
trung học chào đời cách nay trên nửa thế kỷ ở tỉnh
Bình Dương.
Nói về chuyện long đong
thì chắc nó chỉ chịu thua có nàng Kiều của
cụ Nguyễn Du tí chút, chứ nhất quyết không chịu
kém cạnh bất cứ một trang lứa nào khác ở
miền Nam sau 30-4-75, kể cả Trường Pétrus Trương Vĩnh Ký
và Gia Long ở Sài Gòn, Trường Phan Thanh Giản ở
Cần Thơ, Trường Tống Phuớc Hiệp ở Vĩnh Long,.. bởi lẽ sau ngày
30 tháng 4 năm 75 các trường này còn được
tiếp tục làm nhiệm vụ bình thường của mình, chứ
Trường Trịnh Hoài Đức ở Bình Dương thì dứt
khoát bị buộc phải “thôi việc” (Nó bị chấm dứt
nhiệm vụ kể từ năm học 1976 -1977).
Tuy vậy, và đây
đúng là chuyện thế gian hi hữu, sau 15 năm, ngang bằng
thời gian truân chuyên, chìm nổi của nàng
Kiều, ngôi Trường đã bị bức tử, lại được phục sinh với
tên họ cũ, và khai giảng năm học 1990 – 1991 vào
đúng thời điểm bắt đầu học kỳ II, cũng y hệt như lần khai giảng
niên khoá đầu tiên của Trường vào năm 1955.
Trong khi đó, các Trường Pétrus Trương Vĩnh
Ký và Gia Long ở Sài Gòn, Trường Phan Thanh
Giản ở Cần Thơ… với một bề dày truyền thống và một lịch
sử tồn tại không bút mực nào tả xiết… đã
vĩnh viễn bị xoá tên, và cho đến nay chỉ còn
tồn tại trong ký ức của mọi người.
Các thế hệ học sinh của mấy
ngôi trường vang bóng một thời đó chỉ còn
biết ngậm ngùi cho số phận những chiếc lá xa cành
không còn biết nẻo mô để lần về nguồn cội.
Những ai từng có một thời
niên thiếu hoặc thanh xuân đầy mật ngọt, trải qua trong
khung cảnh nên thơ của một trường trung học hoặc một “campus”
xanh tươi hay trầm mặc của một trường đại học, chắc không thể
nào tránh được được những cảm xúc bùi
ngùi như thế. Cũng may mà ngôi trường Trung Học
được may mắn mang tên vị văn quan lỗi lạc có những cống
hiến xuất sắc trong lịch sử văn hoá, xã hội của nước Việt
Nam thời cận đại ở tỉnh Bình Dương, đã sớm được trả lại
sự công bằng mà nó đã bị tước đoạt, bởi việc
xoá sổ nó cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận một Truyền
thống Giáo dục tốt đẹp bậc nhất, cùng với những
thành quả quý báu mà nó
đã cống hiến cho xã hội nói chung và cho
tỉnh Bình Dương nói riêng.
Bây giờ chúng ta quay
trở lại đầu đề của bài viết, mà mục đích là
nhằm nói lên sự Ra Đời, sau đó Biến Mất, rồi lại
Tái Xuất Hiện của Trường Trịnh Hoài Đức trong giai
đoạn lịch sử mấy mươi năm qua của Tỉnh Bình Dương.
Cho đến nay Trường Trịnh
Hoài Đức đã có một lịch sử tồn tại hơn nửa
thế kỷ, cùng thời với hầu hết các trường trung học
công lập đầu tiên trên các tỉnh
thành miền Nam, thời kỳ sau khi Hiệp Định Genève
1954 về VN và Đông Dương ra đời, như các trường:
Ngô Quyền ở Biên Hòa, Châu Văn Tiếp ở
Bà Rịa, Cường Để ở Quy Nhơn, Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng,
Trần Cao Vân ở Quảng Nam, Thủ Khoa Nghĩa ở Châu Đốc, Thoại
Ngọc Hầu ở An Giang v.v... Cho tới thời điểm đó, Sài
Gòn và các đô thị quan trọng khác như
Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, Mỹ Tho,... đã có những
trường trung học lớn do người Pháp thành lập từ rất sớm
được gọi là các lycées và collèges
như các Trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, Trường
Gia Long ở Sài Gòn, Trường Quốc Học và Đồng
Khánh ở Huế, Le Myre de Villers ở Mỹ Tho, Phan Thanh
Giản ở Cần Thơ v.v… Hầu hết các tỉnh còn lại trên
toàn miền Nam chưa có một trường trung học công lập
nào. Vài địa phương cũng có những trường trung học
tư thục chưa đầy đủ, do các nhà giáo có uy
tín và những nhà trí thức có
tâm huyết đứng ra thành lập và điều hành.
Những học sinh con em các gia đình khá giả, sau
khi thi đậu bằng Tiểu học, có thể vào học ở những trường
tư thục đó, hoặc nếu gia đình có điều kiện,
lên Sài Gòn thi tuyển vào các
trường công lập như Pétrus Trương Vĩnh Ký
(nếu là nam sinh) hoặc Gia Long (nếu là nữ sinh), hoặc
nếu như không vào được các trường công lập
thì có thể theo học tại các trường trung học tư
thục khá nổi tiếng thời đó như Huỳnh Khương Ninh,
Lê Bá Cang, Nguyễn Văn Khuê.v.v.., hoặc những trường
trung học công giáo do các Frères và
các Soeurs điều hành.
Vậy mà, chỉ một khoảng thời
gian ngắn sau khi Hiệp Định Genève 1954 ra đời, các
trường trung học công lập đầu tiên trên
toàn miền Nam đều đồng thời xuất hiện. Trường Trung Học Trịnh
Hoài Đức Bình Dương khai giảng năm học đầu
tiên 1955-1956 ngay sau khi trường mới vừa xây dựng xong 6
phòng học, gồm một tầng trệt và một tầng lầu với 3 lớp Đệ
Thất, 2 lớp nam sinh, 1 lớp nữ sinh. Số học sinh năm đầu
tiên là 150. Ngày khai giảng, trường còn
chưa có hiệu trưởng hay ban giám hiệu, cũng chưa
có các thầy, cô thực thụ giảng dạy các
môn học theo như chương trình mà Bộ Giáo Dục
quy định. Các thầy giáo khi đó chỉ là
các giáo viên đứng tuổi, được Ty Tiểu Học
Bình Dương điều động đến để trông nom học sinh là
chính. Trường khai giảng vào ngày Mồng Năm Tết
âm lịch, muộn mất một học kỳ. Thế là suốt một học kỳ
còn lại của năm học 1955-1956, học sinh 3 lớp Đệ Thất (lớp 6)
đầu tiên của trường được tận hưởng những ngày tháng
tuyệt vời: vừa học vừa chơi, thời gian ở ngoài sân trường
nhiều hơn trong lớp học, ở ngoài đồng nội, vườn cây,
sân bóng,.. Chơi nhiều hơn học: đánh đáo,
đánh chuyền, ăn vặt, đá bóng, tắm sông, lội
suối, hái trái, trèo cây v.v…
Cũng cần nói thêm
là, trước khi Trường Trịnh Hoài Đức ra đời, tại tỉnh lỵ
Phú Cường đã có 2 trường trung học tư thục
thành lập trước đó vài năm là các
Trường Trí Đức và Nguyễn Trãi. Nhiều thế hệ học
sinh ở Bình Dương từng học ở hai trường đó. Cũng
có người về Sài Gòn học, do gia đình họ
khá giả.
Hầu hết học sinh khoá đầu
tiên của Trường Trịnh Hoài Đức, trong khi chờ đợi
xây trường, đều đã mất một hoặc hai năm chờ đợi ở
các lớp Tiếp Liên (là lớp học mà các
trường tiểu học khi đó mở ra để ôn tập cho các học
sinh đã có bằng Tiểu Học trong khi chờ đợi kỳ thi tuyển
vào các trường trung học). Vì vậy, khi được tuyển
vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) Trịnh Hoài Đức,
có một số trường hợp hai hoặc ba anh, chị, em trong một
nhà cùng học chung một lớp. Phạm vi tuyển sinh của trường
khi đó và mãi cho tới trước năm 1975 là mở
rộng ra toàn tỉnh. Mọi học sinh, không phân biệt địa
bàn cư trú, trong tỉnh hay ngoài tỉnh, nếu
đã đậu bằng Tiểu Học, đều được phép dự thi. Vì
vậy, kể từ những năm đầu tiên cho tới sau này rất nhiều
học sinh trúng tuyển từ các quận, huyện xa xôi
trong tỉnh, thậm chí từ các tỉnh khác như
Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Hậu Nghĩa v.v… đến ở trọ
trong các khu vực dân cư gần trường, xung quanh khu vực An
Thạnh – Búng, đặc biệt là tại các chùa ở
địa phương để đi học...
Cũng không ít
các thầy cô là người Sài Gòn
và các nơi khác được bổ nhiệm hoặc thuyên
chuyển về dạy tại Trường Trịnh Hoài Đức, cũng thuê
nhà, mua nhà, hoặc ở trọ gần Trường để đi dạy.
Thời đó học sinh thường đi bộ
hoặc đi xe đạp đến Trường. Còn với những học sinh
nhà ở xa thì phương tiện vận chuyển nhanh chóng,
tiện lợi mà rẻ tiền là các xe Đò và
xe Lô chạy lộ trình Bình Dương–Sài
Gòn, và ngược lại, chỉ cách 10 phút
là có một chuyến. Xe Đò là loại xe
khách sơn màu đỏ có từ 30–40 chỗ ngồi. Xe Lô
là loại xe nhỏ hơn (8–10 chỗ ngồi) sơn nhiều màu
khác nhau và di chuyển nhanh hơn. Học sinh phần lớn sử
dụng xe Đò, và tất cả đều được giảm 50% giá
vé so với hành khách thông thường. Sau
này, cụ thể là từ năm 1964 -1965 trở đi, khi loại xe chở
khách 3 bánh có tên là xe “Lam” (do
từ Lambro, Lambretta), chở được từ 8–10 người, rất nhanh
chóng và tiện lợi, được đưa vào sử dụng,
thì học sinh thích sử dụng loại phương tiện này
hơn, vì loại xe này đưa học sinh tới tận cổng trường
và trước giờ tan trường đã có mặt trước cổng
trường để rước học sinh và thầy cô về nhà.
Những ai được tận mắt nhìn
thấy quang cảnh nhộn nhịp của khu vực An Thạnh–Búng vào
trước giờ nhập học và tan trường thời ấy không khỏi tiếc
rẻ cho hình ảnh đẹp của một quá khứ còn chưa xa,
nhưng đã vĩnh viễn chìm sâu vào quên
lãng.
Cho đến hôm nay hồi tưởng lại sau
hơn 50 năm, người viết bài này không khỏi giật
mình tự hỏi không biết vì sao, vào
các thập niên 50-60 của thế kỷ trước, tại vùng đất
hiền hoà, trù phú và xanh tốt quanh năm
này, nơi vốn đã được biết đến từ lâu như là
quê hương của sầu riêng, măng cụt, mít tố nữ,
chôm chôm,.. và những món ăn chơi tinh tế
mà hương vị độc đáo của nó không thể
tìm thấy ở bất cứ một nơi nào khác, là
bánh bèo, bì bún, bì cuốn của thương
hiệu Mỹ Liên,.. hàng ngày lại có thể diễn ra
một nếp sinh hoạt hiền hoà, dung dị, nề nếp và lịch sự
đến như vậy?
Phải chăng, khi người dân
thấy rằng khát vọng học tập, mở mang trí tuệ, và
ước nguyện cho con em mình vươn lên trong cuộc sống,
nhờ vào học vấn, đã được đáp ứng một cách
tốt đẹp, thì đáp lại mọi người phải có nghĩa vụ
tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần tốt nhất,
có thể được, để hỗ trợ cho việc dạy và học của học sinh
và nhà trường, kể cả việc ăn ở và cư xử như thế
nào để con em mình không hổ thẹn với đời. Thầy
cô, nhà trường được tiếp đón bằng tình cảm
yêu thương, quý trọng. Còn học sinh được xem như
là vốn quý của cộng đồng và xã hội. Suy
nghĩ này có lẽ không quá viễn vong, bởi lẽ
xã hội Việt Nam từ ngàn xưa vốn là một
xã hội nông nghiệp, đời sống kinh tế, vật chất của đại bộ
phận người dân còn rất thấp cho nên việc chăm lo cho
con cháu học hành giỏi giắn để thoát nghèo
và tiến thân luôn là lời giải duy nhất cho
bài toán kinh tế, xã hội và văn
hoá của mọi gia đình:
“Muốn sang thì bắt câu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy… ”
Tỉnh Bình Dương vốn
là một vùng đất xưa kia thuộc Phiên Trấn (Gia
Định), cùng với Trấn Biên (Biên Hoà- Đồng
Nai), đã có một lịch sử an cư trên hai thế kỷ.
Vùng đất nầy đã có truyền thống hiếu học,
tôn trọng lễ giáo, lại sớm tiếp xúc với nền văn
minh phương Tây nên sự ra đời của Trường Trịnh Hoài
Đức là sự kiện văn hoá – xã hội trọng đại nhất của
tỉnh Bình Dương trong nửa sau của thế kỷ 20.
Từ những năm đầu tiên cho
tới khi chấm dứt nhiệm vụ vào năm 1976, Trường Trịnh Hoài
Đức đã cung cấp cho tỉnh Bình Dương nhiều thế hệ thanh
thiếu niên được giáo dục thật chu đáo. Sau
này, vào thập kỷ 60 còn có sự đóng
góp của một trường trung học công lập thứ 2 là
Trường Trung Học An Mỹ, toạ lạc tại xã An Mỹ, cách tỉnh
lỵ Phú Cường 7 km, và Trường Trung Học Nông
Lâm Súc Bình Dương nằm kề bên Trường Trịnh
Hoài Đức, tại khu vực An Thạnh-Búng.
Trong lịch sử 20 năm tồn tại của
nó, Trường Trịnh Hoài Đức đã có nhiều
học sinh xuất sắc, sau nầy nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong
xã hội, không những trong tỉnh Bình Dương,
mà còn ở nhiều tỉnh thành khác trong cả
nước và ở nước ngoài. Cho đến hôm nay, ba mươi lăm
năm sau ngày đất nước thống nhất và sau mười lăm
năm xoá bỏ rồi tái lập lại, danh tiếng của Trường Trịnh
Hoài Đức vẫn còn nguyên vẹn. Ba chữ Trịnh
Hoài Đức vẫn là niềm tự hào của những ai sinh ra
và lớn lên trên vùng đất Bình
Dương, mà hiện nay có thể đang có mặt khắp
chân trời góc biển.
Đối với người Bình Dương
hôm nay, ba chữ TRỊNH HOÀI ĐỨC vĩnh viễn là
một giá trị tinh thần không thể phủ nhận. Trong giao
tiếp hằng ngày họ chỉ dùng nhóm từ “Trường TRỊNH
HOÀI ĐỨC” ngắn gọn để chỉ ngôi trường rất được yêu
quý và kính trọng đó, như cách người
ta gọi “Trường Pétrus Ký” hay “Trường Gia Long”, “Trường
Trưng Vương”, “Trường Võ Trường Toản” v.v.., chứ không gọi
theo cách thông thường là Trường Trung Học Trịnh
Hoài Đức hay Trường Trung Học Phổ Thông Trịnh
Hoài Đức như cách gọi hiện nay.
Liên quan đến việc ra đời
của ngôi trường danh tiếng này, cho đến hôm nay, vẫn
còn hai điều bí ẩn mà hiện nay không một ai,
kể cả người viết bài này là học sinh thế hệ
đầu tiên của trường, học ở đó gần 7 năm, và từ năm
1965 dạy và công tác ở đó gần 10 năm
nữa, cũng không sao biết được, đó là:
1.Thứ nhất: Việc chọn vị
trí xây trường
Ai, hoặc những ai là người
quyết định chọn vị trí đó, một vị trí nằm
cách trung tâm tỉnh lỵ đến 5 km và cách chợ
Búng hơn 1 km, chứ không phải một vị trí nào
khác, bởi khi đó tỉnh Bình Dương dân cư
còn thưa thớt và đất công thổ còn rất nhiều?
Câu hỏi “Ai hay những ai là người quyết định chọn vị
trí đó không quan trọng bằng câu hỏi: “Tại
sao chọn vị trí đó?”, bởi vì dù người
đó hay những người đó là ai, thì đó
cũng là một quyết định táo bạo nhưng vô cùng
đúng đắn và chính xác, thể hiện một tầm
nhìn mang tính quy hoạch và viễn kiến cao.
Tỉnh Bình Dương khi
đó dân số chưa đông đúc như hiện nay
và đất công thổ còn rất nhiều, việc chọn lựa vị
trí xây dựng một trường trung học, lại là trường
trung học đầu tiên của tỉnh, không gặp bất cứ một hạn chế
nào. Nhưng tại sao lại chọn một vị trí nằm giữa một
cánh đồng cách xa tỉnh lỵ đến 5-6 km, và từ
đó đến trung tâm quận Lái Thiêu (Thuận An
hiện nay) cũng một khoảng cách tương tự?
Tỉnh Bình Dương đất rộng
nhưng các quận, huyện (khi đó gọi chung là quận),
phía Bắc và Đông Bắc như Bến Cát, Dầu Tiếng,
Phú Giáo (Đồng Phú ngày nay) đều rất thưa
người. Chỉ có phần đất phía Nam, tính từ tỉnh lỵ
Phú Cường đến quận Lái Thiêu, trải dài dọc
theo Quốc lộ 13 và sông Sài Gòn theo
hướng bắc nam, trên một không gian từ 10 đến 15 km,
là khu vực đông dân và trù phú
nhất. Chính trung tâm điểm của khu vực đông
dân đó (tức khu vực An Thạnh – Búng) mới là
vị trí lý tưởng để xây trường Trung học công
lập đầu tiên của tỉnh. Mặc dầu, khi nó mới ra đời,
nhiều người không khỏi cảm thấy khó hiểu về vị
trí lạ lùng của nó - giữa một
cánh đồng vắng vẻ - cách xa tỉnh lỵ đến 5 km và
cách chợ Búng hơn 1 km. Tính chiến lược của quyết
định này, có thể nói như vậy, còn được
khẳng định khi cũng tại địa điểm đó người ta xây
dựng thêm hai ngôi trường quan trọng khác.
Đó là trường Trung học Nội Trú dạy nghề (Trường
Bá Nghệ) dành cho học sinh miền Bắc Di Cư vào Nam
năm 1954, (Năm 1956 Trường này được chuyển giao cho Trường
Trịnh Hoài Đức để làm cơ sở II, tức Trường Trịnh
Hoài Đức nữ.), và Trường Trung học Nông Lâm
Súc Bình Dương, một trong 4 trường trung học giảng dạy
chuyên ngành Nông Lâm Súc đầu
tiên trên toàn miền Nam khi đó. Vậy là
vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 của thế kỷ
trước, trên cánh đồng ven Quốc Lộ 13, cách thị trấn
An Thạnh - Búng hơn 1 km và cách tỉnh lỵ
Phú Cường và quận lỵ Lái Thiêu 5 km,
đã xuất hiện 2 cơ sở giáo dục bậc trung học đầu
tiên của tỉnh Bình Dương là Trường Trịnh
Hoài Đức Nam, Trịnh Hoài Đức Nữ và sau đó
là Trường Trung học Nông Lâm Súc
Bình Dương (đến năm 1972, trường nầy còn được giao nhiệm
vụ đào tạo chuyên viên trung cấp (Kiểm Sự)
ngành Nông Lâm Súc). Ngoài ra
còn có sự góp mặt của một trường tiểu học theo
mô hình mới, cũng là một trong 3 trường thử nghiệm
mô hình này trên toàn quốc: Trường
Tiểu Học CỘNG ĐỒNG DẪN ĐẠO, Búng. Tất cả tạo nên một khung
cảnh học tập, một nếp sinh hoạt mang đậm nét văn hoá hiếm
thấy ở bất cứ một nơi nào khác. Nếu tình
hình đất nước không có nhiều biến động như trong
mấy thập kỷ vừa qua, thì khu vực này có thể
đã biến thành một trung tâm chuyên về
giáo dục và đào tạo của tỉnh Bình Dương
và có thể là của cả miền Nam, bởi nó chỉ
cách xa Sài Gòn có 24-25km.
2. Thứ hai: Việc chọn tên
trường
Bí ẩn thứ hai: Ai là người
chọn tên TRỊNH HOÀI ĐỨC cho ngôi trường ra đời khi
đó? Cho đến nay những người có thể trả lời câu hỏi
này đều không còn lại một ai, trong khi toàn
bộ văn thư lưu trữ tại trường hay ở văn khố tỉnh và ở Nha Trung
Học ở Sài Gòn, thì đã chịu chung một
số phận như nhau là không còn gì cả, sau
biến động lớn ngày 30-4-1975. Rất đáng tiếc là
vào những năm cuối đời của Thầy Trương Văn Di, vị hiệu trưởng
thứ hai của Trường, cũng là người sáng lập và
là vị hiệu trưởng lừng danh nhất trong số các vị hiệu
trưởng, người viết bài này có cơ hội gần gũi
và được Thầy tâm sự rất nhiều, về đủ mọi chuyện,
nhưng không hiểu sao không một lần nào nêu
lên thắc mắc này với Thầy. Đến nay thì đã
muộn, vì Thầy đã vĩnh viễn ra đi vào năm 1982. Mặc
dầu có nhiều nỗ lực tìm tòi nhưng đến nay
câu hỏi trên vẫn còn là một bí
ẩn đầy thách thức. Những ai có liên quan đến Trường
Trịnh Hoài Đức hay bất kỳ ai có chút manh
mối nào về điều bí ẩn này xin vui lòng
lên tiếng. Chúng tôi, những người đang phục dựng lại
quá trình hình thành Trường TRỊNH
HOÀI ĐỨC Bình Dương, vô cùng biết ơn.
Cũng liên quan đến sự ra đời
và trưởng thành của Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC,
không thể không đề cập đến một sự kiện quan trọng
khác là việc dựng tượng vị danh nhân mà
những người sáng lập trường đã chọn để đặt tên cho
trường. Ý tưởng dựng tượng vị danh nhân có nhiều
cống hiến về mặt văn hoá, học thuật đối với phần lãnh thổ
phía Nam của tổ quốc nói chung và vùng
Sài Gòn–Gia Định nói riêng, trong
khuôn viên trường, để làm Ngọn Đuốc Trí Tuệ
và Nhân Cách, soi đường cho các thế hệ
học sinh và thầy cô giảng dạy, hình thành
vào những năm đầu của thập kỷ 70, khi mà Trường Trịnh
Hoài Đức đã trưởng thành và có những
bước phát triển rực rỡ về nhiều mặt.
Việc dựng tượng đã được cử
hành long trọng trong một buổi lễ kỷ niệm một chặng đường
phát triển vượt bực của Trường Trịnh Hoài Đức vào
năm 1972, đặt dưới sự chủ toạ của ông Nguyễn Thanh Liêm,
Phụ Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng Giáo Dục khi đó
là ông Ngô Khắc Tĩnh, và sự chứng kiến của
các cấp lãnh đạo chính quyền tỉnh Bình
Dương và đông đảo quan khách.
Sự kiện ngày 30-4-75
đánh dấu một chuyển biến có tính bước ngoặc trong
lịch sử tồn tại của Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC. Đó cũng
là số phận chung của toàn miền Nam khi đó, chứ
không riêng gì Trường Trịnh Hoài Đức. Nhưng
số phận của ngôi trường này còn ly kỳ hơn nhiều,
như đã nói ở trên, bởi nó đã bị
xoá sổ ngay từ năm 1976. Các giáo viên đang
giảng dạy, trừ những người bị đưa đi cải tạo lâu dài,
và học sinh đang học được phân tán về các
trường thuộc các quận, huyện khác trong tỉnh dưới
các tên gọi mới là các “Trường cấp 2”,
“Trường cấp 3” của từng địa phương như: “Trường Cấp 3 Thị xã
TDM”, “Trường Cấp 3 Lái Thiêu”.v.v… Thay thế vai
trò của Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC vừa xoá sổ người ta
thành lập một trường mới lấy tên là “Trường Cấp 3
An Thạnh”, lấy cơ sở vật chất của Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC Nữ trước
đây.
Từ cột mốc thời gian đó,
Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC hoàn toàn biến mất khỏi cuộc
sống. Cơ sở vật chất rộng rãi, khang trang của nó nhanh
chóng biến thành Trường Bồi Dưỡng Cán Bộ và
Quản Lý G.D và Trường Sư Phạm Mẫu Giáo, có
nhiệm vụ vừa “đào tạo lại” các giáo viên cũ,
vừa cấp tốc sản xuất ra hàng loạt giáo viên mới,
cung ứng cho mạng lưới trường lớp mọc lên nhanh chóng khi
đó.
Việc giải tán Trường TRỊNH
HOÀI ĐỨC và sử dụng cơ sở vật chất khang trang và
vị trí rất thuận lợi của nó, như đã nói đến
ở trên, nhằm phục vụ các mục tiêu và nhu cầu
chính trị cũng như chuyên môn của ngành
giáo dục khi đó cũng là một quyết định bình
thường. Ngoài ý nghĩa thực tiễn ra, quyết định đó
cũng phù hợp với cách nghĩ khi đó là: Cần
phải xóa bỏ những gì Cũ, và thay thế bằng
cái MỚI. Vả chăng, sự tồn tại của một trường trung học
công lập cấp tỉnh cho dù là một trường danh tiếng,
không còn phù hợp với quan niệm tổ chức của
ngành giáo dục trong chế độ mới.
Tuy nhiên có một điều
khác thường mà khi đó mọi người không nhận
ra, vì còn bị cuốn hút bởi nhiều chuyện
khác ly kỳ hơn, đó là sự tồn tại của tượng
đài TRỊNH HOÀI ĐỨC tại nơi an vị, bất chấp mọi dâu
bể, thăng trầm của lịch sử. Ngày ngày, bậc vĩ nhân
đầy tâm huyết với Con Người và Cuộc Sống vẫn bình
thản quan sát mọi chuyện,. Và hẳn là Người
không khỏi ái ngại khi nhìn thấy các
“Nhà Giáo Nhân Dân”, cũng còn được gọi
là các “Kỷ Sư Tâm Hồn”, cuốc xới tan
nát sân trường đầy sỏi đá để trồng khoai củ, rau
muống, rau lang, cây bạch đàn.., làm chuồng
nuôi heo, nuôi dê, nuôi thỏ v.v,.. để vừa phục
vụ “đất nước”, vừa tự cứu mình, bởi lẽ trong giai đoạn lịch sử
này của xã hội VN người ta chưa biết đến khái niệm
“Học Thêm”, “Dạy Thêm” rất phổ biến của mấy thập niên
sau này. Cũng may mà các “vệ binh
cách mạng” VN (còn được gọi là các
“ông bà Ba Mươi”) không quá nhiệt tình
như các “hồng vệ binh Trung Quốc” thời “Cách Mạng Văn
Hóa”, chứ nếu không thì,.. ai biết được điều
gì đã xảy ra?
Một lần nữa, hậu thế phải cảm tạ
công đức to tát của bậc tiên hiền, bằng uy danh
và sự trầm tĩnh của mình, đã cứu vớt một di sản
tinh thần thoát khỏi sự diệt vong và đưa nó trở
lại với cuộc sống. Các thế hệ học sinh xuất thân từ
ngôi trường danh tiếng đó, từ hơn 50 năm qua, cảm thấy
mình là những người may mắn nhất, khi họ còn
có được một NƠI CHỐN để mà quay về, để tưởng nhớ đến bạn
cũ, thầy xưa, và những năm tháng hạnh phúc nhất
trong đời của một con người.
Sau gần 15 năm (1976-1990)
bị xoá sổ, Trường Trịnh Hoài Đức đã được
“thành lập” trở lại bởi QĐ số 33/QĐ-UB của UBND tỉnh BÌNH
DƯƠNG (khi đó có tên là Sông
Bé), do Phó Chủ Tịch thường trực tỉnh là ông
Hồ Minh Phương ký ngày 22-10-1990.
Điều 1 của QĐ này ghi
rõ: “Thành lập trường Phổ Thông Trung Học Trịnh
Hoài Đức thuộc sở GD tỉnh Sông Bé kể từ
tháng 10 năm 1990. Địa điểm nhà trường đặt tại Trường
Trịnh Hoài Đức cũ (xã An Thạnh, huyện Thuận An).”
Thực tế không hề có
chuyện Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC được “tái lập” mà
là một trường có tên là “Trường P.T.T.H
Trịnh Hoài Đức” được “thành lập”, tại vị trí của
Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC trước đây, nơi vẫn tồn tại tượng
đài Trịnh Hoài Đức từ mấy mươi năm qua. Trường
T.H.P.T Trịnh Hoài Đức hiện nay, do vậy, không thể
đồng nhất với Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC trước năm 1975, vì
nhiều lẽ:
• Về danh xưng có một khác biệt
không lớn nhưng cũng cần nói rõ để tránh ngộ
nhận, đó là: Tên gọi đầy đủ của Trường Trịnh
Hoài Đức hiện nay, được thành lập bởi QĐ 33/QĐ.UB
ngày 22-10-1990, là Trường “P.T.T.H Trịnh Hoài
Đức”; sau này đổi lại thành “T.H.P.T. Trịnh Hoài
Đức”. Trong khi đó tên gọi chính thức của Trường
TRỊNH HOÀI ĐỨC trước năm 1975 là “Trung Học Trịnh
Hoài Đức” (mọi người quen gọi là Trường Trịnh Hoài
Đức), bao gồm cả hai bậc: Đệ I cấp (tức là cấp II) và Đệ
II cấp (tức là cấp III).
• Về vai trò và nhiệm vụ thì
cũng có một khác biệt lớn. Trường TRỊNH HOÀI ĐỨC
trước kia là một trường trung học danh tiếng. Học sinh nhập học
phải qua một kỳ thi tuyển rất gay go mà chỉ những học sinh xuất
sắc nhất mới được tuyển vào. Thầy cô giảng dạy đa phần
là những người đạt thứ hạng cao nhất trong các kỳ thi tốt
nghiệp của các Trường Đại Học Sư Phạm toàn quốc.
Các nhà giáo ưu tú này chỉ có
thể chọn các trường gần Sài Gòn nhất như
Bình Dương, Biên Hoà, Long An, Mỹ Tho.v.v,..
và phục vụ ở đó một thời gian vài năm trước
khi được thuyên chuyển về gần nhà.
Trong khi đó, “Trường
T.H.P.T Trịnh Hoài Đức” và “T.H.C.S Trịnh Hoài Đức
” hiện nay chỉ là trường trung học của khu vực, nhận học
sinh của các xã chung quanh Thị Trấn An Thạnh.
Trình độ học sinh, do vậy, cũng không thể so sánh
với học sinh của Trường Trịnh Hoài Đức trước kia. Nếu so
sánh thì cũng chỉ có thể so sánh với
các trường thuộc các khu vực khác trong tỉnh chứ
không thể so sánh với các tỉnh khác
vì hiện nay không hề có một kỳ thi Tú
Tài Quốc Gia như ngày trước, thống nhất, dành cho
tất cả học sinh cả nước.
Nhưng khác biệt lớn
nhất giữa hai “thực thể” này (hãy tạm gọi như thế)
là khác biệt về bản chất. Cả hai được xây dựng
trên hai triết lý nền tảng khác nhau và đều
nhắm đến những mục tiêu khác nhau. Do vậy, các biện
pháp vận dụng để đi đến mục tiêu cũng không giống
nhau. Đó là những nét khác biệt cơ bản giữa
hai hệ thống giáo dục mà bài viết này
không có ý định phân tích sâu
hơn.
Đến đây, chúng ta
đã có được một cái nhìn khá
rõ nét về trường Trung Học TRỊNH HOÀI ĐỨC ở
Bình Dương kể từ ngày mới thành lập vào năm
1955, cho đến tận hôm nay. Đó là trường trung học
công lập đầu tiên của tỉnh Bình Dương, ra đời từ
giữa thế kỷ trước, phát triển một cách rực rỡ cho đến
thời điểm 30-4-1975 thì bị giải thể. Tuy vậy, sau đúng
Mười Lăm Năm Im Lặng, trên cơ sở vật chất và tại vị
trí cũ của Trường Trịnh Hoài Đức trước kia, nơi vẫn tồn
tại tượng đài danh nhân Trịnh Hoài Đức từ 15
năm qua, xuất hiện một trường trung học mang tên Trịnh
Hoài Đức (mới).
Hiện nay “Trường T.H.P.T Trịnh
Hoài Đức” đã được xây cất khang trang hơn
trước, xinh đẹp hơn trước, đã có một diện mạo mới, một cơ
sở vật chất đầy đủ hơn, tiện nghi hơn. Tuy nhiên, những
cái “hơn” thuộc bình diện “hạ tầng” đó, nếu đồng
thời cũng được kèm theo chút ít cái “hơn”
trên bình diện “thượng tầng”, thì quả là đại
phúc cho người dân tỉnh Bình Dương, vốn
là một trong những địa phương có tốc độ phát triển
kinh tế cao nhất nước hiện nay.
Nguyễn Phạm
Ngày 5 tháng10 năm 2010
Ghi Chú: Vị hiệu trưởng đầu tiên của trường là
ông Nguyễn Văn Trương chỉ tại chức có một năm, sau
đó về giữ cương vị hiệu trưởng Trường Pétrus Trương Vĩnh
Ký ở Sài Gòn.