Những con đường chợ Thủ

Hoàng Anh

Thưở xưa, sông Sài Gòn chảy dọc theo chiều dài của tỉnh là lối giao thông chủ yếu, ghe thuyền xuôi ngược trên dòng sông vận chuyển những người khai hoang đi tìm đất mới hay đem hàng hóa xuống tận miền Tây, lên tới Dầu Tiếng, Cao Miên. Người Pháp, khi đánh xong thành Gia Định cũng đã dùng chiến thuyền ngược theo dòng sông này mà lên chiếm luôn Thủ Dầu Một. Một trận đánh ác liệt, đổ nhiều máu có lẽ đã diễn ra trên dòng sông này, giữa những tên xâm lược và những chiến binh dân ấp dân đinh liều chết để giữ gìn sông nước của quê hương. Một vị võ quan, tương truyền tên là Văn Đức Lại đã chỉ huy việc trấn thủ và hy sinh trong trận đánh ấy, nay, tiếc rằng sử sách không còn để giúp ta biết thêm về những vị anh hùng vị quốc vong thân thời xưa ấy.

Chiếm được đất rồi, kẻ cai trị lo xây dựng củng cố vùng đất mới và việc giao thông dần dà hình thành, phát triển, quá trình ấy bắt đầu được ghi nhận bằng giấy bút lưu lại đời sau giúp cho hôm nay ta còn biết được ít nhiều về quang cảnh thời ấy.

Nhà văn Sơn Nam viết:

“Năm 1900, lúc kỹ thuật xe ô tô còn thô sơ, một tay thực dân là Ip-po-lit-tơ (Ippolitts) đã thầu dịch vụ chở thư từ, công văn đi Thủ Dầu Một mỗi tuần. Công ty tàu thủy của Pháp thử mở tuyến đi và về, 2 tuần một lần, vào ngày thứ sáu, từ năm 1885, nhằm chở lính, gạo cho đồn bót, chuyến về thì kéo đòan ghe chở củi, cây súc.”

(Sơn Nam,Truyền thống văn hóa, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.339)

Thập niên sau, căn cứ theo tập Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một năm 1910, việc lưu thông có bước phát triển khá hơn:

“Một chiếc sà-lúp của người Hoa tương đối tiện nghi mỗi ngày có chuyến khứ hồi giữa Thủ Dầu Một với Sài Gòn. Tàu khởi hành 7 giờ sáng ở Thủ dầu Một và 6 giờ chiều thì đã về cập bến. Mỗi lượt đi hay về chỉ mất 2 giờ 30. Đường sông quanh co đẹp như tranh vẽ, giữa đôi bờ xanh tươi và thuyền bè đi sông đi biển chở nặng gỗ cây, trái cây, lúa gạo và muối ăn.”

(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.213)

Tư liệu của Tổng niên giám Đông Dương 1910 cũng cho biết:

“Một tàu thủy của hãng Yeng-Seng chạy trên sông Sài Gòn mỗi ngày một chuyến khứ hồi từ Thủ Dầu Một tới Sài Gòn. Sáng 7 giờ khởi hành từ Thủ Dầu Một tới Sài Gòn hồi 10 giờ. Chiều 3 giờ khởi hành từ Sài Gòn tới Thủ Dầu Một hồi 6 giờ. Lượt đi cũng như về, đều có ghé tại Lái Thiêu. Giá vé một lượt, hạng nhất 0đ80, hạng nhì 0đ50 và hạng ba 0đ40.”

(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.220)

Muốn qua sông, người ta phải đi đò, bến đò nằm ngay tại khu chợ cá, thời đó đò chưa có động cơ mà phải nhờ hai trục bánh xe gắn ở hai bên đuôi thuyền, nối liền với các cánh quạt, khi di chuyển có hai người đàn ông đạp trục bánh để tạo lực và điều khiển hướng đi của thuyền. Gặp khi nước ngược, thuyền thường bị đẩy giạt đi khá xa. Mỗi chuyến chở được cũng đôi ba chục khách. Có vị cao niên kể rằng đôi khi thuyền còn chở cả xe ngựa, nhưng phải đợi khi nước lớn để tránh độ dốc ở hai bờ sông.

Những con đường bộ được hình thành dần sau đó, đường đất, gập ghềnh và lầy lội trong mùa mưa, phương tiện di chuyển chỉ có xe bò hay xe ngựa. Một đọan văn xưa miêu tả:

“Chợ nằm ngay khúc quành của dòng sông, chiếm hết hậu trường của khung cảnh. Bên phải và bên trái là những lùm bụi um tùm và các cội cao tơ như nép sát vào bờ sông bên con đường mòn màu đất đỏ quạch đã vẽ thành những đường rực lửa cắt ngang nền xanh của vùng đất trù phú hoang vu này”

(Hòai Anh, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, tạp chí Xưa và nay số 45B, tr.15)

Mãi đến khi người Pháp qua mới bắt đầu mở mang kiến thiết đường xá thành một mạng lưới giao thông cơ bản và khá hòan chỉnh, một số con đường chính cũng được tráng nhựa để phục vụ cho xe có động cơ chạy xăng dầu.Hệ thống giao thông toàn tỉnh được ghi nhận như sau:

“Tòan tỉnh có 210 km đường bộ, chia ra 190 km đường rộng 4m và 20 km đường rộng 3m. Chỉ có 25 km đường thuộc Sở lục lộ, còn là đều do tỉnh phụ trách bảo trì. Người đứng đầu cầu đường tỉnh là một viên chức bản xứ. Du khách ai cũng thán phục là đường lộ của tỉnh nhà thật tươm tất.

Một số đường đang được cải thiện và nối dài”

(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.213)

Những con đường đang được “cải thiện và nối dài” đó là đường từ Sài Gòn lên tới Bến Cát, đường qua Biên Hòa, Tây Ninh, và con đường từ Lái Thiêu qua Tân Uyên, Biên Hòa.


Chợ Thủ Dầu Một

Đến năm 1934, chợ Thủ Dầu Một, nhà làng Phú Cường, hệ thống dẩn nước được khánh thành trọng thể, cùng với những con đường được tráng nhựa giới hạn xung quanh khu vực chợ. 

Con đường quan trọng nhất ở giai đọan này là đường liên tỉnh nối liền Sài Gòn với Thủ Dầu Một, nối dài thêm mãi về sau chạy lên tới Lộc Ninh, qua Cam Pu Chia,  ngang qua các đồn điền cao su rộng lớn,  dưới chế độ miền Nam có tên gọi là Quốc lộ 13. Tài liệu từ năm 1910 cho biết:

“Đường bộ nối Thủ Dầu Một với Sài Gòn dài 28km luôn được bảo trì tốt. Nếu đi xe hơi (1910) thì mất 3 khắc, còn xe ngựa thì mất 2 giờ 30. Tới Lái Thiêu đã bắt đầu leo dốc quanh co thoai thỏai, cảnh vật thật ngọan mục.”

(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.212)

“Đường bộ từ Sài Gòn tới Thủ Dầu Một mất 20km qua đường thuộc địa số 2. Mỗi ngày có 2 chuyến xe đò. Đường đó sang tới Cam Pu Chia”

(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.220)

Như vậy tên của con đường quốc lộ 13 thưở đầu thế kỷ là đường Thuộc địa số 2, một cái tên khá xưa nay còn biết. Đây là con đường huyết mạch của tỉnh, hai bên nhà cửa san sát, khang trang, hàng quán trưng bày đẹp mắt. Đến năm 1973, người Mỹ xây dựng thêm tuyến đường mới, gọi là đường xa lộ (nay thuộc đại lộ Bình Dương), chạy từ Lái Thiêu lên đến khu vực Mũi Dùi (xã Chánh Hiệp, nay là phường Hiệp Thành) để giải tỏa bớt áp lực của xe cộ lưu thông trên đọan đường chạy ngang trung tâm chợ. Đường xa lộ rộng, láng, đem đến sự ngạc nhiên và thán phục của dân chúng, tuy nhiên xe cộ chưa lưu thông nhiều trên đường này mà dành cho xe loại lớn như xe be, cam nhông và đặc biệt, các loại xe quân sự, đôi khi chạy rì rầm cả đêm. Xin mượn tạm đọan văn sau đây, ghi lại hình ảnh của con đường xa lộ ngày trước:

“Một đoàn xe nhà binh mở đèn từ phía Tân Cảng Sài Gòn rầm rộ tiến trên xa lộ Bình Dương, kéo lê theo sau những thùng sắt khổng lồ chứa đựng quân lương và đạn dược. Bánh xe ép trên mặt lộ truyền từng cơn chấn động đến chỗ Cúc đang ngồi trong quán nước cạnh xa lộ. Chiếc xe quân cảnh mở đường hụ còi, đèn đỏ lớn hai bên vè chớp tắt cuống quít. Người lính ngồi trên xe nổ súng, đoàn xe dừng lại trước cuộn rào kẽm gai kéo chắn ngang con đường đất đỏ khá rộng dẫn vào rừng, hai người lính đứng sát hai bên rào gai. Gã quân cảnh bước xuống xe móc túi đưa lộ trình. Đoàn xe chậm chạp quẹo vào con đường đất đỏ, động cơ rầm rì. Cúc ngồi trong quán bên kia đường ngó qua. Cho tới lúc chiếc xe bọc hậu khuất sau đám bụi đỏ mịt mù. Trời xế trưa, nóng hực.”

…..

“Từ phía Bình Dương ào ào xô tới một đoàn xe tăng rầm rĩ, xích sắt chấn động làm rung rinh ghế Cúc đang ngồi, ly chai trên bàn va chạm leng keng. Cúc sốt ruột đứng dậy ra đứng bên cạnh Sáu Cụt. Đoàn xe tăng kéo lê theo sau mỗi chiếc một khẩu trọng pháo, nhiều cỡ khác nhau. Chiến xa dẫn đầu từ từ quẹo vô con đường đất đỏ, những chiếc sau nối đuôi, bầy rùa sắt chậm rãi bò tới, nặng nề, dọa nạt. Tiếp đến bốn chiếc cuối cùng có gắn liền ở tháp xe những khẩu trọng pháo dài ngoằn độ sáu bảy thước, theo sự ước lượng của Cúc, nòng pháo chĩa nghiêng chếch lên trời.”

(Kiệt Tấn, Điểm Hẹn Cuối Năm)

Từ năm 1999, đọan đường từ ngã ba Mũi Tàu (thuộc phường Hiệp Thành, Thủ Dầu Một) đến giáp ranh xã An Thạnh có tên mới là Cách Mạng Tháng Tám (dài 5.509, 9m).

Chạy song song với con đường này là con đường dọc theo bờ sông, từ giao lộ Bàu Bàng, đi 1741m đến Miễu Tử Trận, nay là một công viên nằm giữa ngả ba rẻ lên trường Sĩ quan Công Binh. Thời Pháp, đó là đường LaGrandièr. Tên đường hầu hết là do Tây đặt, và dĩ nhiên mang tên Tây, nay có lẽ chỉ còn duy nhất đường Yersin là dấu vết của thời đó.


Đường Hàng Dương (Đường Bạch Đằng)

Đường Bạch Đằng bắt đầu từ miễu Tử Trận, đi ngang qua khu vực xưa có tên là An Nhất Thuyền, nhiều người cho rằng sở dĩ có địa danh đó là vì xưa đây là vùng đóng thuyền ghe nổi tiếng của Nam bộ, có lẽ do suy ra từ chữ “Thuyền” chăng?. Theo học giả Nguyễn Đình Đầu, thì “Thuyền” chỉ một đơn vị hành chánh tương đương cấp ấp, thời đó cả miền Nam có năm “thuyền” như vậy. về các trại ghe, nhà văn Sơn Nam cho biết rõ hơn:

“Theo tư liệu của sĩ quan Pháp là Đờ-Gra-Mông (Lucien De Grammont) thì đã có một viên quản đồn điền nắm quyền, dân tập trung ở khu vực gọi “đường phố dài”, tại thủ (đồn) có đến 22 xí nghiệp cở lớn chuyên đóng ghe. Tác giả này không ghi chi tiết. Ta suy luận là những trại cưa xẻ gỗ đóng ghe tải (grands chantiers de construction). Có lẽ người Hoa tập trung về đây chăng?”

 (Sơn Nam,Truyền thống văn hóa, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.334)

Ông Nguyễn Liên Phong, đến năm 1909, cũng ghi nhận hình ảnh này:

“Trại ghe trại ván sẳn cùng

Sông sâu nước chảy điệp trùng bán buôn” 

(Nguyễn Liên Phong, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, sài Gòn, Phát Toàn, 1909, tr.14)

Trại đóng ghe, qua những gì còn lưu lại như trên, cho thấy từ khi Pháp mới đến cho tới hồi đầu thế kỷ 20 là một hình ảnh ấn tượng của địa phương. Nơi đóng ghe, tất yếu phải nằm men theo kinh rạch, sông để thuận lợi cho việc vận chuyển cây gỗ và  hạ thủy khi sản phẩm hoàn thành. Có thể suy luận thêm, như vậy từ thời xưa, con đường này đã khá nhộn nhịp, đông đúc xe cộ và người qua lại. Tuy nhiên không biết tại sao, chỉ vài mươi năm sau thôi thì các trại ghe này không còn nhìn thấy nữa.

Qua khỏi thuyền An Nhất thì đến cầu ông Kiểm (còn gọi cầu Cây Cui,có phải đọc trại từ cây Keo, vì bên cầu có một cây keo rất lớn?), phía tay phải là trường Mỹ Thuật (xưa hay gọi trường Bá Nghệ) xây dựng tại đây từ đầu thập niên 30 thế kỷ trước.Tay trái là sở Quan Thuế. Từ đây, phía mặt tiếp giáp với dòng sông, phía trái là các trụ sở cơ quan của chính quyền, cho đến khi tới chợ.  Dựa vào hình ảnh trên các tấm bưu thiếp từ thời Tây nay còn lưu lại, có thể nói rằng đây là đoạn đường xưa và đẹp nhất của chợ Thủ nhờ nằm sát bờ sông, phía bên sông là vườn trái cây xanh hiền hòa, bên đây là nhiều công trình kiến trúc của Tây. Nhất là ngọn đồi cao với nhiều cây cổ thụ, bao quanh tòa nhà làm việc của quan Tham Biện tỉnh. Theo Trần Bình Dương, ( Trong bài Hàng Dương-con đường đẹp nhất Bình Dương) dựa vào tài liệu của Baurac ( La Cochinchine et ses habitants-Sài Gòn 1899) và Monographie de Thu dau Mot 1910, đầu những năm 1890, chính quyền Pháp ra lệnh đốn hết hàng trăm cây dầu mọc ven đường và trồng tòan cây dương ( peuplieur filao), từ đó, dân gian mới gọi là đường Hàng Dương (Bình Dương, miền đất anh hùng, nhiều tác giả, nxb.Trẻ, 2006, tr.149). Từ năm 1910 đổi thành đường Bạch Đằng, dân gian cũng gọi là bến Bạch Đằng (Pháp gọi Quai de Belgique) để chỉ đọan đường chạy ngang tòa Tham biện tỉnh.

Bài vè xưa về chợ Thủ mô tả con đường này:

“Bên sông chợ cá

Đường đi mát quá

Lại có Hàng Dương

Đi thẳng một đường

Lên cầu ông Kiểm

Máy cưa bằng điện

Bá Nghệ một bên

Từ đó đi lên

Có hai dãy phố

Đàn bà thiệt ngộ

Quần vận bằng chăn

Đầu uốn tóc quăn

Xem ra rất tốt

Nhìn bốn cây cột

Có bốn con rồng

Chữ đề ở trong

Là Miễu Tử Trận”

Hồi ký của Grammont có đọan văn khá tài hoa hết lời ca ngợi quang cảnh nơi đây:

“Sự bố trí ở đây được coi là một khung cảnh hòanh tráng, cộng thêm những vẻ mỹ miều của các danh thắng, mà không làm mất đi phần nào tính cách hoang sơ thôn dã của nó. Độc đáo tự nhiên của khu vực đã tạo ra một nhiệt độ ôn hòa, nhờ những cây cổ thụ đã che bớt sức nắng gay gắt của buổi ban trưa. Vào những ngày đẹp trời, khi chiều xuống, nếu có ai dừng lại ở giữa cao nguyên, vì ngay lúc mặt trời sắp lặn, các ánh hòang hôn hiu hắt sẽ được ngọn gió nồm đìu hiu thổi về làm tắt lịm hẳn đi. Ánh vàng bàng bạc còn chiếu lên tất cả những đường nét chi li của tòan khung cảnh trang hòang tuyệt mỹ này, một cách tự nhiên, hòa hợp với vô vàn hương sắc hòa quyện trong hơi ấm của dòng sông, tỏa lên tận các tàng cây rủ bóng, từ các lùm bụi cỏ hoa, ta tưởng chừng một thóang đã để hồn lâng lâng giữa một tòa nhà kính bao trùm lên những lượn sóng triều, xanh biêng biếc. Thế là ta không còn tưởng mình ở đất Nam kỳ nữa: không còn những ruộng lúa, những đầm lầy với ánh nắng chói chang như lửa. Ta cứ tưởng như gặp lại đâu đây những cảnh đẹp lừng danh của vùng Tân thế giới và ta như cảm thấy sống lại trong ta một kỷ niệm xa xôi, vui nhộn, mà rạo rực, của những dòng sông trù phú đã được mô tả trong áng cổ thi bất hủ của Attala. Tôi đã sống qua suốt bảy tháng trời tại đây. Trong suốt thời gian này (Tôi ngần ngại không dám tự thú) dường như có đôi lần tôi đã quên hẳn nước Pháp.”

(Hòai Anh, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, tạp chí Xưa và Nay số 45B, tr.16)

Một trăm năm sau, năm 1954, nhà văn, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền có thời gian về dạy học tại trường trung học tư thục Nguyễn Trãi ở Bình Dương. Trong một lá thư ông viết cho một người học trò cũ của mình ở thời kỳ ấy (giáo sư Võ Tấn Phước), ông cũng nhắc đến con đường Hàng Dương:

“Tôi rất thích con đường bờ sông vắng vẻ với một bên là khu tòa tỉnh cây cối um tùm, một bên là mặt nước trải phẳng , xa xôi và hiền lành; ngồi ở ngôi nhà thủy tạ bên bờ sông có thể trông xa tới tận ngôi trường Công Binh nằm phía bên kia cây cầu xi măng ngắn nơi ngăn cách con đường tráng nhựa của thị xã và con đường đất bụi của vùng ngọai vi.”

(Thư của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền gởi người học trò cũ, ngày 18-01-92)

Khi người Pháp đến, trên đường đã tồn tại hai ngôi chùa cổ:

“Một ngôi chùa nho nhỏ đã biến cải thành vọng gác cất chồm ra bờ sông và nằm chắn ngang giữa bãi. Làm nền cho ngôi chùa là một cây xòai tơ, điểm nhô ra xa nhất của cái ghềnh  nho nhỏ này.

“Ngôi chùa kia nằm lui về đường ranh giới bên trong của địa điểm nổi bật này. Ngôi chùa đã biến thành một thứ đồn lũy nhỏ với các trại quân và công sự phòng thủ. Hông chùa tiếp giáp với bờ sông là một chiến lũy có lỗ châu mai thiếp lập dài theo bờ thành. Sự bố trí ở đây được coi là một khung cảnh hòanh tráng, cộng thêm những vẻ mỹ miều của các danh thắng, mà không làm mất đi phần nào tính cách hoang sơ thôn dã của nó.”

(Hòai Anh, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, tạp chí Xưa và nay số 45B, tr.15)

Tác giả nhận xét về hai ngôi chùa như sau:

“Tòan vùng sẽ tạo cho ta một nỗi niềm thành kính đối với quê hương đất nước này. Ai cũng nhận thấy điều đó nhờ có hai ngôi chùa. Mỗi ngôi chùa là một tòa kiến trúc uy nghi. Ngôi nằm gần dòng sông là ngôi đẹp nhất. Từ ngày bị xâm chiếm, ngôi chùa đã trải qua bao cuộc đổi thay. Đầu tiên là trại quân, tiếp sau đó làm lỵ sở của tỉnh, rồi tòa án, rồi nhà ở của Bộ Chỉ Huy, và cuối cùng chùa được giao cho một nhiệm vụ tầm thường là một câu lạc bộ, rồi một phòng ăn.”

 (Hòai Anh, sđd)

 Nhà văn Sơn Nam ghi chép rằng:

“Các vị bô lão còn kể lại: địa điểm chợ Thủ Dầu Một là bến xe trâu, thuận lợi để tắm trâu và rửa xe. Gần bến là quán trà Huế, quán cơm, lần hồi thành chợ”

(Sơn Nam, Truyền thống văn hóa, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.337)

Ông Nguyễn Liên Phong, vào năm 1909, cũng cho biết một chi tiết quan trọng về nguồn gốc của chợ Thủ:

“Chợ đông người nhóm dập dều

Chợ Thủ nguyên trước cựu triều bến xe”

(Nguyễn Liên Phong, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, sài Gòn, Phát Toàn, 1909,tr.14)

 Khu vực bến đò và chợ cá, rất có thể là bến xe trâu thưở xưa. Qua khu vực chợ cá, có nhà thầy Năm Trong nổi tiếng giàu có, nay chỉ còn lưu lại cây trụ cửa ngỏ đúc bằng gạch và xi măng có chạm trổ hoa văn. Kế đó là nhà bảo sanh của bà Năm Chi, nay là khu chung cư cao tầng.Vượt qua cây cầu là khu vực của người Tàu, đông đúc, náo nhiệt, nhà cửa có nhiều màu đỏ đặc trưng của họ. Phía tay trái có ngôi nhà to và đẹp nhất khu vực là dinh cơ của Hội đồng Ngôn, vào thập niên 50 là xưởng sản xuất loại đĩa nhựa 45 vòng chuyên dùng để thu các tuồng cải lương và vọng cổ.

 Đến giao lộ Bàu Bàng (trước là đường Trương Vĩnh Ký), còn gọi khu Lò Heo, thuộc đường Nguyễn Tri Phương, kéo dài 3350m đến giao lộ 30-04.

Từ lúc này, con đường chạy len lỏi giữa những làng mạc vườn quê xanh mát và hiền hòa, qua nhiều cây cầu nhỏ và ngôi miếu thờ Bà Thiên Hậu (bên cầu Thủ Ngữ, đây là tiền thân của “Chùa Bà” ở đường Nguyễn Du hiện nay). Đi mãi, sẽ đến cảng Bà Lụa với ngôi đình cổ nổi tiếng linh thiêng và nhất là nét đẹp về kiến trúc đặc trưng truyền thống của Nam bộ. Đình xây từ khi nào không rõ nhưng khi Pháp mới qua, ngôi đình này đã có mặt và được nhắc tới:

“Sau khi đi ngang qua chợ, các bạn sẽ ra đi khỏi làng, về phía Nam. Rồi các bạn lần theo một con đường mòn xinh xinh có những đường viền linh động. Nhiều cây cầu bắc ngang, những hàng rào xương rồng cao cao, những cây cối xum xuê đầy triển vọng, nó dành cho bạn muôn ngàn sự bất ngờ sau mỗi bước đi. Bạn sẽ đi tới bờ kinh, nơi kết thúc khu dân cư, cách đó chừng năm cây số. Tại đó bạn sẽ gặp ngôi chùa Bà Lụa, chùa cất dưới một vòm lá cao khoảng 150 bộ, giữa gốc ba cổ thụ to, tôi chưa từng thấy bao giờ. Có khi chúng tôi cũng đi săn tới nơi đó  và ở lại nghỉ chân suốt nửa ngày mà không phải lo sợ điều gì, cuộc dừng chân là để chúng tôi giải khuây phần nào với những người dân địa phương và nghề nghiệp của mình”

(Hòai Anh, sđd, tr.16)

Chạy song song và cắt ngang hai con đường Bạch Đằng và Cách Mạng Táng Tám có  nhiều con đường ngắn hơn, tạo thành mạng lưới giao thông của khu vực chợ Thủ. Đáng kể trước tiên nhất là hai con đường chạy cặp hai bên ngôi chợ, đường Nguyễn Thái Học và đường Đòan Trần Nghiệp.

Đường Nguyễn Thái Học từ nhà làng Phú Cường (nay là trụ sở  Ủy ban nhân dân phường Phú Cường) chạy  đến đường Bạch Đằng ở bờ sông, dài 356,9m. Đời Pháp, gọi là đường Garrido, sau 1954, đổi lại là Thái Lập Thành, rồi mới có tên Nguyễn Thái Học cho tới nay.

Thái Lập Thành là tên của vị Thủ Hiến Nam Kỳ, thay ông Trần Văn Hữu. Ngày 31 tháng 7 năm 1951, trong một lần tham dự buổi lễ tại tỉnh Sa Đéc, ông cùng viên Tư lệnh quân đội Pháp ở Nam phần là Charles Chanson bị ám sát chết bởi một cảm tử quân kháng chiến Việt Nam tên là Phan Văn Út. Sự kiện này gây rúng động cả Sài Gòn và Paris vào thời đó.

Đường Nguyễn Thái Học thời xưa có đường ray xe điện làm bằng gỗ cây, có móc nối vào dây điện phía trên, chạy đến nhà hàng và phòng ngủ Nam Bắc Hiệp. Phía bên kia, trước chợ đồng hồ có nhà ga cất hình chữ thập (sau 1945, khi nhà ga ngừng họat động đổi lại là phòng Thông tin, rồi là nơi bán sách vở, văn phòng phẩm). Xe điện có được ba toa, có bánh lái ở hai đầu xe, khi rời bến, tài xế chỉ việc đổi ra phía sau. Mỗi đầu xe có hai ngọn đèn làm tín hiệu, khi bật đèn trắng là đầu xe, còn đèn đỏ là phía sau xe. Khi xe chạy, sẽ có người đi bán vé, từng trạm sẽ có màu vé khác nhau thuận tiện cho nhân viên đi kiểm tra.

 Lại cũng có mấy người lớn tuổi, thưở nhỏ từng đi xe điện nay vẫn còn nhớ, người nói là xe điện; người thì bảo thực ra xe chạy bằng hơi nước. Gần đây đọc một bài viết của Sơn Nam, ta biết thêm:

 “Pháp cho mở thêm tuyến xe lửa (chạy hơi nước, sau chạy điện) từ Sài Gòn, Bà Chiểu, Hóc Môn lên Lái Thiêu, về sau nối lên Lộc Ninh nhằm chở mủ cao su về Sài Gòn).

(Sơn Nam, Người Bình Dương, Nam Bộ xưa và nay, nxb. Tp Hồ Chí Minh,1998, tr.154)

Chỗ này dường như ông Sơn Nam cũng có điểm lầm, thực ra lúc đó có hai đường rầy khác nhau, một cho xe lửa và một cho xe điện. Tuy nhiên kết hợp hết các thông tin này, có thể nói rằng đường xe điện lúc đầu chạy hơi nước, về sau tiến bộ hơn thì mới thực sự chạy điện, vì vậy mà các cụ kể lại không giống nhau vì họ đi ở các thời điểm khác.

 Qua khỏi chợ, xe chạy vòng qua Nhà Làng, vòng qua bến xe cũ (nay là công viên Phú Cường) xuống trạm Phú Văn, Búng, Cây Me, Lái Thiêu rồi mới qua cầu Phú Long.

 Đường xe điện này bắt đầu có giấy phép thực hiện vào ngày 27-7-1889, đưa vào sử dụng từ 17-09-1897, chạy từ Sài Gòn tới Gò Vấp, sau nối dài qua vùng Ba Thôn tới bờ kia của sông Sài Gòn ở Lái Thiêu. Sau khi cầu Phú Long xây dựng xong, đường ray đựơc nối dài lên chợ Búng, Phú Văn và tới chợ Thủ vào năm 1923. Đến năm 1945, vì chiến tranh, tuyến đường này ngưng họat động.

Trên dãy phố dọc theo con đường Nguyễn Thái Học nay còn lại vài ngôi nhà đã trên 70 năm, kiến trúc khá đẹp theo kiểu thời xưa. Một trong những căn đó là Thiện Đức Đường, của ông bang Kề, người Việt đọc trại ra là bang Cờ, người Phước Kiến. Nổi danh là người giàu có, ông còn được người thời nay nhớ đến vì giai thọai thi nhau đốt pháo với một ông bang giàu có nhà kế bên trong lễ hội rằm tháng giêng. Chuyện này được nhà văn Bình Nguyên Lộc kể lại trong truyện ngắn “Người tài xế điên”, với hai nhân vật mang tên “ông bang Sa”, chủ tiệm sắt và “ông bang Lếnh”, chủ tiệm gạo:

“Nhưng chắc chắn là cúng nhiều, kéo nhau đi ngòai đường và “cái đinh” của ngày lễ là đốt pháo đua. Ông cắc chú nào đốt nhiều hơn ông khác là ăn. Không ăn cái gì hết, nhưng được đồng bào của họ phục lắm.

Thực ra chỉ vài ông bang trong tỉnh lỵ mới dự cuộc đua đốt pháo này, vì phải đốt hàng mấy giờ liền, nếu không làm ăn lời to thì đừng mong đua với ai.”

(Bình Nguyên Lộc, Người tài xế điên, Tuyển tập BNL II, nxb. Văn Học, 2002, tr.794)

Về sau, vợ chồng bà bảy Lìn có thời gian sống ở ngôi nhà này trước khi dời qua căn nhà ở đường Đòan Trần Nghiệp, trước là tiệm thuốc tây Trần Tấn, nay là tiệm giày Bitis.

Đường Đòan Trần Nghiệp dài 366,7m, tên thời xưa là Rechaud, chạy song song với đường Nguyễn Thái Học, cũng bắt đầu và kết thúc như con đường này. Vè xưa tả lại cảnh vật trên đường  khá sinh động:

“Có tiệm cà phê

Có người quạt nước

Rủ nhau bày sọan

Có tài có tuổi

Có may có rủi

Có vận có thời

Ngồi nghỉ một hơi

Bước vô tiệm hút

Người hút pho pho

Kẻ thì nằm co

Người thì nằm thẳng

Ba tiệm đăng đẳng

Người ta rất đông”

Chợ Thủ xây cất theo mô hình một chiếc tàu, nên dân chúng có người còn gọi vui là “Hàng không mẫu hạm”, nếu vậy thì hai con đường cặp hai bên có thể mường tượng như hai dòng nước chảy hai bên mạng tàu khi lướt sóng trên đại dương, nhứt là khi ngắm nhìn từ trên cao, lúc xe cộ nối đuôi nhau dập dìu trên hai con phố. Các bức ảnh còn lưu lại từ hồi đầu thế kỷ cho thấy thời trước chỉ là những ngôi nhà thấp đơn sơ, có lẽ phải đến khi chợ được xây dựng lại vào đầu thập niên 30, hai con đường được trải nhựa thì các ngôi nhà lầu đẹp mới thi nhau lần lượt mọc lên.

Nằm bên trái đường Đòan Trần Nghiệp có vài con đường chạy song song với nó, gần nhất là con đường ngắn dài khỏang 100m bắt đầu từ đường Hùng Vương đến đường Trừ Văn Thố. Trước năm 1980 có tên Triệu Ẩu, sau đổi thành Bà Triệu. Trên đường này có hai căn nhà xưa, ở góc đường là nhà của ông chủ rạp Thanh Bình, giữa đường là nhà của dòng họ ông Đốc phủ Biện. Hai căn nhà này nay vẫn còn, nhưng có vẻ cũ kỷ, hoang phế. Có một thời, con đường này còn là bến xe ngựa, mãi đến sau 1985, khi người đi xe ngựa thưa thớt dần thì mới hết.

Kế tiếp là đường Văn Công Khai. Thời Tây gọi là Rue Daniel, sau 9/3/1945 Nhựt đảo chánh Tây thì đổi lại là Rue des Poteries. Dưới chế độ miền Nam đặt lại là Võ Tánh, đến 1980 có tên là Văn Công Khai cho tới nay. Đường dài 487,7m từ đường Hùng Vương đến đường Bàu Bàng. Đầu đường có ngôi nhà không to lắm nhưng kiến trúc cũng khá đẹp là nhà của ông phán Dần, làm lục sự tòa án. Trên đường có nhiều trường học, như trường tiểu học Trí Tri (ngôi nhà xưa bên cạnh phòng khám đa khoa thị xã hiện nay, ngôi nhà này nguyên của ông Trần Văn Lý, còn gọi là ông Tư Lý, cũng từng có lúc là phòng khám bệnh của bác sĩ Rạng, con ông bà Năm Chi, mua lại của ông Ba Cảnh ), trường Chim Non (Thầy Giáo Thọ dạy, nổi tiếng nghiêm khắc), trường Nghĩa An của người Hoa, trường trung học tư thục Nghĩa Phương (do thầy Lê Bích, một kiến trúc sư từ Sài Gòn về là Hiệu trưởng). Trường trung học tư thục Nguyễn Trãi do thầy Nguyễn Tiên Sanh sáng lập năm 1955, một trong những ngôi trường đầu tiên của tỉnh, nằm cách đường cũng chỉ vài chục mét Đường từng có tên là Rue des Poteries, tiếng Việt là đường Lò Chén, có lẽ vì nếu đi thẳng riết trên con đường này, người ta sẽ đi qua vùng lò chén nổi tiếng của người Tàu ở Chánh Nghĩa, Bình Dương.

Thứ ba là đường Trần Tử Bình, trước năm 1999 có tên là Phan Văn Hùm. Đường bắt đầu từ  đường Cách Mạng Tháng Tám đến đường Lý Thường Kiệt, dài 343m.Ở đọan có đường Hùng Vương cắt ngang tạo thành ngã tư, có tên là ngã tư Quốc Tế. Không ai nhớ chính xác tên này có từ bao giờ và tại sao lại gọi như thế, nhưng từ xưa đây đã là nơi có nhiều tiệm cà phê, tiệm kem và quán ăn có tiếng, người qua lại khá tấp nập. Giai đọan giữa thập niên 60, ngòai số khách người Việt, đi với lính tráng còn có nhiều người Mỹ, Tân Tây Lan…có lẽ cái tên Ngã tư Quốc Tế ra đời trong bối cảnh này.

Từ đường Nguyễn Thái Học, có các con đường chạy cùng chiều song song bên cánh phải: Đường Đinh Bộ Lĩnh, đường Ngô Quyền, đường Nguyễn Văn Tiết.

Đường Đinh Bộ Lĩnh, kết nối hai con đường Trần Hưng Đạo và Bạch Đằng, dài 339,5m, có tên đó từ 1945 đến nay. Khu vực đầu đường trước 75 là trụ sở của sở Học Chánh, qua phía ngả tư trở đi là trại giam, tường xây cao, đến cuối đường công trình kiến trúc đáng kể có nhà Bưu Điện, xây từ thời Tây, dân gian còn gọi nhà dây thép. Phiá tay trái của đường có ngôi nhà cổ của ông nha sĩ Trần Công Vàng, do ba của ông là Hội đồng Cần xây cất từ năm 1889, nay vẫn còn hầu như nguyên vẹn.

“Từ đó đi lên

Ông cò ở trên

Khám đường ở dưới

Tường xây cao dữ

Lại gắn miểng chai

Từ đó đi ngay

Xuống phông tên nước

Đi xuyên tuốt luốt

Tới nhà việc Phú Cường

Nhà cất bằng tường

Gắn máy radio”

Đường Ngô Quyền, tên thời Tây là Commandant Henri, nối hai con đường Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng, dài 539, 5m. Khởi từ đầu đường, phía tay trái là phiá sau của nhà thờ chánh tòa Phú Cường, phía tay mặt có khu trượt patin Tứ Hải, họat động nhộn nhịp được thời gian ngắn thì ngưng do lệnh cấm trò chơi này của chính phủ trước 75. Chạy dài theo con đường, qua ngả tư piscine (gần đó có một hồ bơi) đến ngả ba có con đường Nguyễn Tường Tam rẻ phía tay mặt chạy lên Thành Quan, ngang ngôi nhà to và đẹp của ông Cả Luận, một thầy thuốc Đông y nổi tiếng, đường này nay đổi lại là Ngô Chí Quốc, thời trước dân địa phương chỉ gọi là đường Đắp Mới, dù sau 1963 đã có tên là Nguyễn Tường Tam. Cũng trong năm này, cây cầu bắt qua con rạch nhỏ được làm lại kiên cố hơn, bọn trẻ con trong xóm thích đứng trên thành cầu nhảy xuống nước bơi lội, nơi đây trở thành địa điểm vui chơi của lũ nhỏ một thời. Qua khỏi cầu, phía tay mặt có nhà ông Năm Hí là một lò võ cổ truyền đã đào tạo được nhiều đệ tử.

Từ ngả ba rẻ lên đường đắp mới, phía tay trái đường Ngô Quyền là khu cư xá cảnh sát rồi đến khu cư xá sĩ quan gần tới bờ sông, còn tay mặt là khu xóm đạo, tức khu cư ngụ của người Công giáo. Hồi ký của ông Grammont mô tả khu vực này vào đầu thập niên 60 thế kỷ 19 như sau:

“Ở phía Bắc, cánh rừng thiêng danh tiếng là nơi tập hợp các họ đạo mới thành lập.”

(Grammont, Hoài Anh dịch, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, Xưa và nay 45B, tr. 15).

Một tài liệu khác cho biết rõ hơn về xóm đạo này. Trong bức thư của linh mục Phêrô Nguyễn Đức Nhi, cha sở người Việt Nam đầu tiên của họ Thủ Dầu Một  viết cho linh mục Poinat vào năm 1910 có đọan:

“Vốn trước kia, Đại Pháp qua Nam kỳ thì chưa có họ Thủ, hoặc có một hoặc hai người đạo hạnh lếu láo theo ở giữa kẻ ngọai hoặc có kẻ trốn cơn bắt đạo, đến đó ẩn tránh vậy mà thôi. Đến lúc đại Pháp đánh lấy thành Biên Hòa là năm 1861, thì qua chiếm cứ Thủ Dầu Một, vậy thì bổn đạo Tân Triều, Bến Gỗ, Búng, Lái Thiêu, Bến Sắn đổ tràn đến Thủ hoặc nương bóng cờ Langsa khỏi Trào Nam bắt bớ vì đạo, hay đặng buôn bán với người ngọai quốc. Bởi vậy sinh ra đông người có đạo ở đó. Tôi tưởng gốc họ Thủ như vậy”

(Kỷ yếu giáo phận Phú Cường 1965-2005, tr. 206)

Những người miền Bắc đạo Công giáo di cư năm 1954 có thể cũng đã gia nhập thêm vào khu vực này, nhưng gốc gác của xóm đạo, theo mô tả của các đọan văn trên cho thấy bắt nguồn từ xa xưa lắm. 

 Con đường này còn là lối đi chính dẫn lên trường Sĩ Quan Kỹ Thuật Công Binh ( xưa gọi thành Săng Đá (Vassoigne), do phát âm trại từ chữ soldat mà ra) do vậy là một trong những con đường khá đông đúc của một thời, nhất là vào những ngày cuối tuần, những người lính quần áo ủi hồ phẳng phiu dáng đi mạnh mẽ cùng với những người đi lễ nhà thờ quần áo tề chỉnh rảo bước, tà áo dài đủ màu sắc của các cô gái thướt tha theo gió đã làm cho phố phường như xinh đẹp hẳn lên.

Đường Nguyễn Văn Tiết, trước 1980 là Châu văn Tiếp, bắt đầu từ cuối đường Bạch Đằng, chạy dài 1276m thì gặp đại lộ Bình Dương, ngang qua địa phận của hai phường Phú Cường và Hiệp Thành. Tại điểm khởi đầu có một công viên nhỏ, trước đây là Miễu Tử Trận, được xây dựng từ thời Tây để tưởng nhớ những người Việt bị Tây bắt đi đánh trận chết ở nước ngòai, trong cuộc Đại chiến lần thứ nhất.

“Nhìn bốn cây cột

Có bốn con rồng

Chữ đề ở trong

Là Miễu tử trận

Khỏang năm 1970, tại đây có một cái tủ đựng máy vô tuyến truyền hình, ban ngày khóa lại, đến tối thì có người mở ra cho dân chúng trong xóm đến coi, ngồi chen chúc trên bãi cỏ. Hồi đó máy vô tuyến  truyền hình, nay gọi tivi, rất hiếm, nên dù phải ngồi dưới đất, ai nấy cũng say mê, nhất là vào những tối thứ sáu, thứ bảy có chương trình cải lương. Tại đây cũng là bến xe ngựa, vì rẻ về hướng trường Công Binh, phía tay trái có một ngôi chợ kiểu tiền chế do lính Tân Tây Lan (New Zealand) dựng lên, gọi là chợ Tân Tây Lan. Từ ngôi miễu, có :

Có đường đắp ngăn

Chạy thẳng thành quan

Có đường đắp ngang

Đi qua cầu dốc…”

Con đường mỗi lúc một cao dần, đi ngang qua khu ký túc xá của quân đội Tây, nằm phía tay trái, gọi là Thành Quan, công trình kiến trúc đó nay vẫn còn, là một di tích quý hiếm của tỉnh ghi dấu thời kỳ thuộc địa ảm đạm của địa phương. Phía tay phải, đối diện khu thành Quan này có một ngôi nhà nằm giữa khu vườn có trồng nhiều cây kiểng, khoảng năm 1973 được chọn làm cảnh quay bộ phim Ngọc Lan do nam diễn viên Bảo Ân và Thanh Lan thủ vai chính. Người trong xóm kéo đến chen chút xem hai tài tử điện ảnh nổi danh đóng phim.

Khi vượt qua quốc lộ 13 cũ, đường dẫn vào một xóm quê gọi là xóm chùa Đức Sơn vì phía bên trái, cách đường không tới 100m có ngôi chùa cổ xây từ thế kỷ 18 (1775) mang tên đó.

Ngòai các con đường vừa kể, có vài con đường nữa cũng đáng nhắc đến.

Đường Nguyễn Du, trước năm 1945, tên Tây là Rue La Bataille, dài chỉ 138,1m, từ Cách mạng Tháng 8 tới đường Yersin. Đường này tuy ngắn, nhưng dân ở đây ai cũng biết vì có ngôi chùa Bà, vào dịp rằm tháng giêng thì chen chân không lọt, trống múa cù rộn rã ngày đêm. Xung quanh đó lại có ba ngôi trường, trường Nam (trường tiểu học Nam Châu Thành, nay là trường Nguyễn Du), trường Nữ (trường tiểu học Nữ Châu Thành), hai ngôi trường xưa và lớn nhất tỉnh, và trường tư thục Đăng Khoa do thầy Nguyễn Văn An (ông Đốc An) lập. Tại trường này có một nữ sinh từng theo học một thời gian trong khóa hè, tên là Nguyễn Thu Cúc, sinh năm 1947, quê quán Bình Long, về sau trở thành ngôi sao ca nhạc nổi danh của miền Nam là Mai Lệ Huyền.

Sau năm 90, khu nhà trước chùa Bà bị giải tỏa để làm công viên, quang cảnh nơi đây trở nên rộng rải, thóang đảng hơn, và vào ngày rước cộ Bà, cũng đở cảnh chen lấn như trước.

Đường Phạm Ngũ Lão, xưa gọi là Rue des Jardins, từ đường Yersin, chạy 1280m thì đụng đại lộ Bình Dương. Ở đầu đường, đổ xuống một con dốc, phía tay trái là mặt sau của nhà thờ Chánh tòa Phú Cường, từ giữa thập niên 60 đã xây dựng ngôi trường trung học Thánh Giuse. Phía tay mặt là ngôi biệt thự khá đẹp của một ông quan Tây làm việc tại tỉnh trong những thập niên đầu thế kỷ. Đường thường được dân gian gọi là đường Giếng Máy hay đường Bưng Cải.

“Xuống tới đầu chợ

Trại cưa trước mặt

Thổ mộ có hàng

 Rủ nhau sọan bàn

Đi về Bưng Cải”

Đầu và cuối con đường là hai cái dốc rất cao, phía giữa, như một thung lũng, là vùng đất thấp, có nhiều mạch nước ngầm phun lên, từ ngữ địa phương gọi là mội, nước trong, ngọt. Người Pháp xây một nhà máy khai thác nước ở vùng này để phục vụ cho khu vực chợ Thủ, do vậy mà có từ Giếng Máy để phân biệt với các mội nước tự nhiên trong vùng. Ông Nguyễn Đình Đầu nhận xét:

“Tòan tỉnh có nhiều mạch nước ngầm tốt. Chính tòa bố đã dùng nước giếng ngầm dẫn từ xóm Bưng Cải cách 800m về. Một lầu nước xây trên đồi cao cùng với 23 phông-ten ở rải rác cung cấp nước cho cả thôn Phú Cường. Nước Bưng Cải rất tốt, không phải các tỉnh khác của Nam Kỳ đều được nước tốt như vậy.”

(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.212)

“Lầu nước xây trên đồi cao” mà tác giả đề cập, được mô tả vị trí chính xác là:

“Đài nước này rất gần trụ sở thanh tra, ở trên chỗ cao trông ra sông. Độ cao của nó cho phép cung cấp nước đáp ứng nhu cầu cho tỉnh.”

“Nước do các nguồn nước của Bưng Cải cung cấp có chất lượng tuyệt hảo. Đó là một thuận lợi lớn cho tỉnh. Ở khắp vùng Nam Bộ, nước ăn uống hầu như không tốt cho sức khỏe dân chúng”

(Địa chí Thủ Dầu Một-1910, tr.6, Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh, Hội khoa học lịch sử Bình Dương,2007)

Đây là một trong những con đường quê hiền hòa và nên thơ nhất của thị xã. Hai bên đường dẩn đến cây cầu nhỏ là hàng cây dầu cổ thụ cao vút, kế đó là hai mương nước trong veo, nhìn thấy rõ những đám rong xanh biếc và từng đàn cá đủ màu sặc sở nhởn nhơ bơi lội.Thời đó không hiểu sao người ta không bắt cá, không chích điện để tiêu diệt sạch sẽ tất cả các lòai sinh vật sống dưới nước như bây giờ. Nhà cửa thưa thớt, nằm ẩn mình giữa những vườn cây trái xanh um, mùa hè, ve kêu ran cả trời đất, trái chín lủng lẳng trên cành rất đẹp mắt.Giữa khung cảnh của làng quê nghèo hiền hòa mộc mạc ấy, ngôi nhà của ông Huyện Tình chợt hiện ra tráng lệ, uy nghi. Năm tháng trôi qua, nó vẫn đứng yên như vậy như thách thức với thời gian, chỉ có rêu mốc đóng trên mái ngói và tường vôi, nhất là trong những buổi chiều nắng vàng, là gợi cho người ta khó ngăn được cảm giác bùi ngùi mơ hồ, chạnh lòng  trước những dâu bể và tàn phai của muôn vật ở cỏi trần gian này. Người xưa đâu tá?

Đường Trừ Văn Thố, tên thời Tây là Rue Lacotte, ( có tài liệu ghi là Moriet, tên một sĩ quan Pháp), giai đọan 1957-1980 đổi tên là Lê Văn Duyệt, dài 138,3m gồm hai đọan, nối đường Văn Công Khai và Đinh Bộ Lĩnh, bị cách ngăn bởi khu chợ Thủ. Trên đường này, xưa Tây cho trồng hàng me hai bên đường, dấu vết nay vẫn còn. Một tiệm mì nổi tiếng trước 75 bán ở lề đường có thương hiệu là mì Cây Me, nay dời qua bán ở đường Văn Công Khai. Có vài ngôi nhà đáng chú ý như nhà bà Bảy Lìn, nay là nhà hàng Bông Sen, đối diện có khách sạn Bông Sen, lúc đầu dành cho Mỹ thuê, trước cũng thuộc bà Bảy. Kế bên nhà bà Bảy có ngôi nhà cũng khá xinh xắn là nhà của ông phán Nhơn, làm Đệ Tam Tham Vụ trong tòa Đại Sứ của chế độ miền Nam ở nước ngòai. Sau 75 ông bán nhà dời về Bình Chuẩn và qua đời nơi đó ít năm sau. Phiá bên kia chợ có khu nhà nghỉ Phi Long, có nhà ông đốc Di, một nhà giáo danh tiếng của thị xã trước đây, và nhà thuốc của đông y sĩ Nguyễn Văn Khê, thường gọi thầy Bảy Khê.

Đường Lý Thường Kiệt, tên thời Tây là Rossigmeux, dài 813,4m từ đường Cách Mạng Tháng 8 đến đường Nguyễn Thái Học. Trên đường này nhà cửa san sát, có nhiều quán ăn, tiệm nước, có nhà bào chế thuốc Võ Văn Vân nổi tiếng cả Đông Dương một thời, và gần đó là rạp hát Bầu Liêu, rạp hát đầu tiên của chợ Thủ chuyên trình diễn các tuồng hát bội. Biệt thự tư nhân có nhà ông Đốc phủ Biện (Hạ Quang Biện), về sau có lúc là trụ sở Bảo an đoàn (1959), ông Phạm Ngọc Thảo (1922-1965), Tỉnh Đòan Trưởng, từng ở đây, nguyên mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân trong bộ phim tình báo Ván bài lật ngửa. Con gái ông bà Đốc phủ, vợ của tiến sĩ Trần Văn Trai, từng lập ra hãng Mỹ Vân phim, có công phát hiện ra minh tinh Thẩm Thúy Hằng và thực hiện bộ phim Người đẹp Bình Dương tạo nên thanh danh cho phụ nữ tỉnh nhà. Căn nhà ông Đốc phủ Biện xưa đó, từ sau 1975 là trụ sở hội Chữ Thập đỏ tỉnh Bình Dương.

Đường Hai Bà Trưng, tên thời Tây là Outrey, sau 1954 đổi lại là Trưng Vương, đến ngày 20-04-1998 Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bình Dương ra quyết định số 52/1998/QDUB đặt lại là đường Hai Bà Trưng cho đến nay. Con đường này dài 250m, nối hai con đường Văn Công Khai và Đòan Trần Nghiệp, thuộc phường Phú Cường.

Outrey là quan đầu tỉnh Thủ Dầu Một vào đầu thế kỷ 19, từ năm 1901, ông đã cho xây dựng trường Bá Nghệ (École des arts) trước chợ Thủ. Về sau trường này được dời về vị trí hiện nay ở đường Bạch Đằng. Đây được xem là ngôi trường mỹ thuật sớm nhất ở nước ta. Trước khi được bổ nhiệm làm quan đầu tỉnh TDM, ông từng làm cũng chức vụ ấy ở Vũng Tàu, là người có công vạch kế họach thiết kế Vũng Tàu thành trung tâm nghỉ mát miền biển.

Người Bình Dương khó quên con đường này, vì giữa đường có rạp hát Trần Trung Hí Viện, về sau đổi tên là rạp Thanh Bình, nơi diễn các tuồng hát bội, cải lương, đại nhạc hội và về sau còn chiếu phim. Bình thường đây là khu phố của người Tàu, với vài tiệm làm mì, bán tương, nhang đèn ở đầu đường, ở bên lề, có một vài ngừoi Việt bán truyện tranh, bán dế, cá lia thia…khách hàng chủ yếu là bọn trẻ con, nhưng mỗi khi có đòan hát về, nhất là vào mấy ngày Tết thì con đường trở nên đông đúc, náo nhiệt, rộn rả ngày đêm. Ở góc đường tiếp giáp với đường Võ Tánh là công xi rượu của bà Bảy, nay không còn.

“Từ đó xuống sông

Tới nhà Út Chánh

Có đường đắp ngắn

Đến rạp Trần Trung

Chưng hình mỹ nữ

Bán đồ sành sứ

Đông đảo chỗ này”

Kể đến đây, dĩ nhiên là chưa nói hết về các con  đường ở thị xã, hy vọng sẽ có dịp bổ sung, khi sưu tập thêm được nhiều tư liệu.

“Mênh mông đại hải

Khắp cả châu thành

Tôi không biết nữa…”

(Vè chợ Thủ)

Viết về đường chợ Thủ như trên, điều làm người viết lo lắng nhất là sự chính xác của những gì trình bày. Chúng tôi đã cố gắng thu thập từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, quan trọng nhất là ghi lại từ lời kể của các cụ cao niên nay còn nhớ chuyện ngày cũ, chỗ được chỗ mất. Chúng tôi đã nhờ nhiều cụ đối chứng, kiểm tra, tuy vậy thời gian đã quá lâu thì những gì còn lưu giữ trong ký ức khó tránh được sự nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ tiếp tục công việc của mình, và rất mong được sự giúp đở của tất cả những ai còn nhớ về chuyện cũ ở Bình Dương.

Kể chuyện quá khứ xa xăm, mù mịt, mong nhất là ít điều sai sót. Muốn vậy, phải nhờ cậy đến sự chỉ bảo của nhiều người.

(06-07-10)