Con đường huyền thoại dẫn 'vàng trắng' về Sài Gòn

Trần Chánh Nghĩa

Vào thời điểm miền Nam còn là thuộc địa của Pháp, phương tiện để di chuyển "vàng trắng" chưa có. Các chủ đồn điền đã kiến nghị với chính quyền xây dựng tuyến đường sắt để chuyển cao su từ Lộc ninh về Bến Cát...

Vùng Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp thuộc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Phước) có thổ nhưỡng thích hợp với cây cao su. Tại đây có những đồn điền cao su bạt ngàn và sản phẩm làm ra có khối lượng đáng kể.

Thế nhưng vào thời điểm miền Nam còn là thuộc địa của Pháp, phương tiện để di chuyển những cục "vàng trắng" này chưa có. Các chủ đồn điền đã kiến nghị với chính quyền xây dựng tuyến đường sắt để chuyển cao su từ Lộc ninh về Bến Cát...

Lớn lên trong khói lửa

Năm 1927, con đường cao su (rubber line) bắt đầu hình thành. Sau 6 năm thi công, năm 1933, đoạn đường sắt từ Lộc Ninh đi bến Đồng Sổ dài 69 km do một công ty tư nhân là Công ty Xe Điện Bến Cát - Kratie đầu tư đã được chính thức khánh thành.

Theo đó, cao su đi từ Lộc Ninh đến bến Đồng Sổ rồi lên tàu thuyền tại cảng sông Bến Cát để về đến Sài Gòn.

Đến năm 1937, đoạn đường này lại nối vào hệ thống hoả xa Đông Dương thành tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh.



Nhà ga xe lửa Lộc Ninh và đầu máy hơi nước (Ảnh: Internet)

Tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh có tổng chiều dài 141km đi từ ga Sài Gòn qua Lái Thiêu, Bình Dương, Hớn Quản, Lộc Ninh và kéo dài tới biên giới Campuchia. Để hình thành được tuyến này, Pháp đã phát hành rộng rãi trái phiếu trên toàn nước Pháp và Đông Dương.

Từ khi hình thành đến trước 1945, để đến được Lái Thiêu rồi tiếp tục đến Lộc Ninh, lộ trình chạy tàu được khởi hành từ ga Sài Gòn đến ga Gò Vấp rồi chạy dọc theo đường bộ bây giờ là Nguyễn Oanh rồi tiếp đến Hà Huy Giáp. Sau khi qua các cây cầu nhỏ, đến Thạnh Lộc đoàn tàu sẽ vượt qua cầu sắt Lái Thiêu (bây giờ là cầu Phú Long) khoảng 2km để đến ga Lái Thiêu.

Nhờ tuyến đường sắt này bộ mặt tỉnh Thủ Dầu Một (cũ) mà đặc biệt là các vùng Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp có nhiều thay đổi. Hàng ngày đoàn tàu đưa hàng trăm tấn cao su về Sài Gòn đồng thời cũng đưa đi đón về hàng ngàn khách. Nhiều người từ miền Bắc, miền Trung đổ vào tìm việc làm đã nâng số lượng khách lên đáng kể.

Đồn điền tiếp tục được mở rộng thêm. Công nhân lao động làm các công việc như làm đất, trồng cây, chăm sóc và cạo mủ được tuyển dụng rộng rãi.

Điều này có thể thấy rõ qua con số năm 1935 vận chuyển được 80.000 lượt khách và 25.000 tấn mủ thì chỉ một năm sau con số này tăng đến 100.000 lượt với 42.000 tấn.


Phát hành trái phiếu để xây dựng đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh (Ảnh: Internet)

Năm 1937, tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh được chuyển về cho đường sắt Đông Dương quản lý. Các tuyến đường sắt được kết nối vào chung hệ thống và các đầu máy cũ kỹ lạc hậu được thay thế bằng các đầu máy mới mạnh hơn tiết kiệm hơn.

10 năm sau, đầu năm 1947, lực lượng Việt Minh tấn công dữ dội vào tuyến đường sắt ở Gò Vấp. Điều này đã làm cho đoàn tàu Sài Gòn - Lộc Ninh không thể về đến ga cuối cùng.

Khách và hàng được chuyển đến ga thuận tiện nhất. Mặc dù trở ngại như thế nhưng sản lượng cao su chuyên chở về Sài Gòn đề xuất khẩu cũng lên đến con số 60.000 tấn/năm.

Chỉ còn trong ký ức

Dường như các tuyến đường sắt trong giai đoạn này chỉ có tuyến Sài Gòn - Lộc Ninh chịu nhiều tổn thất do chiến tranh nhất. Nhưng dù thế nào người Pháp cũng phải duy trì vì những lợi ích cốt lõi mà tuyến đường mang lại.

Ngày 6/11/1949, cầu Lái Thiêu bi đánh sập. Tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh bị gián đoạn. Người Pháp quyết định làm mới 5,5 km đường sắt nối An Mỹ với Dĩ An không phải qua cầu Lái Thiêu, nhập chung vào đường sắt Bắc Nam để về đến Sài Gòn. Việc thông thương hàng hóa và đi lại của nhiều người được khôi phục. Những tấn hàng cao su tiếp tục được đến với cảng Sài Gòn.

Nhưng rồi đến giai đoạn 1950 - 1953, tuyến đường này lại tiếp tục hư hỏng vì chiến sự làm chậm tiến độ sản xuất và xuất khẩu cao su. Việc vận chuyển không được suôn sẻ, trong khi các đồn điền vẫn tiếp tục sản xuất khiến cho hàng hóa bị ứ đọng...


Ngã tư Ga. Cầu vượt ngã tư Ga băng qua quốc lộ 1A để về cầu Phú Long

Những năm về sau đó, doanh thu bị giảm dần đến mức không thể tiếp tục duy trì, tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh chính thức bi loại bỏ vào năm 1960. Nó kết thúc 27 năm hoạt động.

Chúng tôi có dịp trở lại cung đường này. Dấu vết của những chuyến tàu một thời xuôi ngược đã không còn. Những đoạn đường sắt, những ga xép, ga lớn, những cây cầu sắt giờ đã đổi thay...

Có lẽ đến nay chỉ còn sót lại một dấu vết duy nhất là một đoạn đường sắt ngắn ngủi dọc theo đường Nguyễn Xí (P. 13, Q. Bình Thạnh, TP.HCM). Nhiều bậc cao niên ở khu vực này cho biết, đoạn đường sắt này nằm trên hệ thống tuyến đường sắt Sài Gòn- Lộc Ninh. Trước đây, nhà cửa chưa nhiều và cầu Đỏ chưa xây dựng lại thì đoạn đường sắt ngang qua khu vực này dài lắm.

Nhiều người ở Sài Gòn lâu năm nhưng vẫn chưa biết tại sao ngã tư quốc lộ 1A (trước đây là xa lộ Đại Hàn) giao với Hà Huy Giáp thuộc phường Thạnh Lộc Q. 12 được gọi là ngã tư Ga. Tàu hỏa từ ga Sài Gòn hướng về Lộc Ninh trước khi qua cầu Phú Long đều phải ghé ngang ga này. Ga này có tên là ga Xóm Thơm.

Cầu Lái Thiêu bây giờ là cầu Phú Long cũ vẫn còn nhưng xuống cấp nặng. Hiện cầu đã hạ tải trọng xuống mức thấp nhất và chỉ dùng cho xe 2 bánh.

Tuy đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh không còn nhưng hình ảnh cầu Phú Long, đoạn đường sắt dọc theo đường Nguyễn Xí và tên gọi ngã tư Ga vẫn là những kỷ niệm nhắc nhở chúng ta về một cung đường sắt chỉ còn trong ký ức...

Cái chết ám ảnh của người mẹ trên chuyến tàu cuối cùng

 Chúng tôi đứng trên cầu Phú Long dõi mắt về phía trước. Bên kia là Lái Thiêu với phố xá khang trang sầm uất. Hình ảnh về một cây cầu dành cho những chuyến tàu và một sân ga đã biến mất, chỉ còn trong trí nhớ của các bậc cao niên...

Cầu Phú Long và đường đến Lộc Ninh

Vào bên trong một con hẻm ở P. Lái Thiêu (TX Thuận An, Bình Dương), chúng tôi tìm gặp ông Hai Thành qua lời giới thiệu của một người bạn. Ông Hai nay đã già, tóc bạc trắng.

Ông kể lại: "Ngày xưa, cầu Phú Long có tên là cầu sắt Lái Thiêu. Cầu này dài khoảng 500 đến 600m bắc ngang sông Sài Gòn. Cầu dùng cho cả xe hơi, xe máy và xe lửa. Cầu này cũng giống như bao cầu sắt khác cũng gồm những giàn sắt của hãng Eiffel.


Cầu Phú Long

Năm 1953, cầu bị đánh sập mấy nhịp. Giao thông qua lại giữa Sài Gòn và Lái Thiêu phải chuyển hướng hoặc dùng phương tiện khác. 14 năm sau, năm 1967 cầu mới được sửa chữa nhưng lần này chỉ để dùng cho xe hơi.

Những nhịp bị đánh sập được thay thế bằng dàn sắt Bailley kiểu Mỹ lót gỗ. Sàn gỗ này được duy trì cho đến sau 1975 được thay bằng sàn vỉ thép và trải nhựa đường trên mặt cầu.

Qua nhiều lần bị hư hỏng và sửa chữa lại, hiện nay cầu rất yếu. Tải trọng chỉ còn một tấn. Từ khi có cầu mới về phía hạ lưu thì cầu này chỉ dành cho xe 2 bánh. Sự hiện diện của cây cầu Phú Long cũ này cũng chỉ là để ghi lại một kỷ niệm của một thời đã qua.

Cách cầu Phú Long chừng 2km là nhà ga Lái Thiêu. Nơi đây bây giờ không còn một dấu vết gì để nhận ra. Sân ga và đường sắt đi ngang qua đã bị dỡ bỏ và thay vào đó là khu dân cư đông đúc, sầm uất...


Người Pháp sử dụng đường sắt để khai thác mủ cao su (Ảnh: Internet)

Ông Hai kể tiếp: "Ngày ấy xe lửa chạy chậm lắm. Tốc độ của xe lửa chỉ hơn xe đạp một chút. Vì khổ đường 1m chạy đầu máy hơi nước nên khó có tốc độ cao được. Tuy nhiên cũng nhờ có đoàn tàu này đã giúp nhiều người đi lại thuận tiện.

Đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh tiếp tục qua khỏi Lái Thiêu qua Bình Nhâm chạy theo hướng quốc lộ 13 cũ và giữ khoảng cách với đường bộ chừng 2km.

Rồi tới Búng đến Phú Văn, đường sắt trực chỉ vào ga Thủ Dầu Một. Nhà ga này mằm trước trường THCS Phú Cường ngày nay. Sân ga được biến thành bến xe Bình Dương rồi tiếp tục thành công viên. Khu vực này thay đổi khá nhiều để bây giờ chúng ta khó có thể tim thấy được dấu vết xưa của nó.

Tuyến đường xe lửa tiếp tục chạy theo hướng đường Võ Thành Long hiện nay rồi sau đó băng qua các cánh đồng mía, nương rẫy … thẳng đường lên Bến Cát, Bến Đồng Sổ, Bầu Bàng, Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh.

Tôi đã từng đi lại nhiều lần trên tuyến xe lửa này vào thời điểm gần kết thúc. Trên tàu, đa số là công nhân, thợ thuyền và người buôn chuyến. Có một câu chuyện rất thương tâm mà khi nhắc lại ai cũng thấy xót xa ..."

Câu chuyện trái gùi

Người đàn ông tiếp tục kể: "Hôm ấy là ngày 8/5/1960. Chuyến tàu cuối cùng của tuyến đường Sài Gòn - Lộc Ninh trước khi ngưng hoạt động, ghé vào ga Lái Thiêu. Một người phụ nữ tay xách nách mang lỉnh kỉnh hàng hóa lên tàu. Một đứa bé theo chị đứng dưới sân ga nói với lên : "Chiều về má nhớ mua trái gùi cho con nghe".

Người phụ nữ ấy là chị Trương Thị Nhành người ở làng An Thạnh. Hàng ngày, chị chở đồ gốm lên tàu đi bán chợ Hớn Quảng, Lộc Ninh. Nhà chị rất nghèo. Chồng bị bệnh không lao động được.

Đã nhiều năm qua, chị miệt mài bán buôn kiếm đồng lời về nuôi gia đình. Sức khỏe của chị mỗi ngày một yếu nhưng chị vẫn phải đi. Mỗi lần đi như thế, đứa con thường dặn chị mua trái gùi - một loại trái rừng được bán ở Hớn Quản.


Trái gùi (Ảnh: Internet)

Tiếng xình xịch của máy tàu, tiếng còi tàu rời ga vang lên. Chị đứng trên tàu nhìn xuống đứa con đang đưa tay vẫy chào.

Rồi chị đến Hớn Quản vào chợ buôn bán cho đến chiều dọn hàng trở về. Trước khi đến ga chị không quên mua một xâu trái gùi.

Tiếng còi tàu báo tin xe vừa chuyển bánh. Chị Nhành cầm mấy xâu gùi vội vã bước lên tam cấp. Bất ngờ, chị trượt chân ngã trên đường ray. Bánh xe lửa cán qua người chị. Thi thể chị bị đứt làm hai ...

Tàu tiếp tục đi, về đến ga Lái Thiêu, những người đồng hành cùng chị đã trao cho đứa bé xâu gùi. Thằng bé nhìn thấy gùi mà không thấy mẹ khóc thét lên: "Má con đâu? Má con đâu?".

Biết nói làm sao cho nó hiểu bây giờ? Họ đành phải tìm cách báo cho cha nó để đi về Hớn Quản gom thi thể vợ về mai táng.

Người chồng tìm đến hiện trường, gom góp những mảnh thi thể của vợ cho vào quan tài chuyển về Lái Thiêu. Từ đó anh sống cuộc sống gà trống nuôi con.

Sau 3 năm mãn tang vợ, nhiều người gợi ý mai mối cho anh. Anh từ chối và kể lại rằng có những đêm anh nằm mơ thấy chị về đặt xâu gùi trong tay con. Chị nhắc anh đắp mền cho con vì trời trở gió. Chị cũng khuyên anh đợi con lớn hãy lấy vợ vì "Mẹ ghẻ con chồng sống khó lắm ..."

Ông Hai dừng lại. Dường như ông xúc động. Câu chuyện xảy ra cũng khá lâu nhưng là vì cùng địa phương nên ông thấu hiểu.

Ông nói tiếp: "Cha thằng bé ở vậy nuôi con lớn khôn. Thằng bé nay cũng đã gần 60 tuổi rồi, cha nó cũng không còn.

Mỗi lần gặp nó tôi hỏi có còn nhớ trái gùi không? Nó nói: "Xe lửa không còn, tiếng còi tàu đã tắt nhưng trái gùi là má con, con không nhớ sao được...".

Trần Chánh Nghĩa