Những người giữ
hồn Nam Bộ
Trải qua bao biến thiên dâu bể, tưởng chừng như những
nét văn hoá truyền thống đậm chất dân gian của miền
sông nước Nam bộ chỉ còn lại trong ký ức của người
già. Nhưng có những người con của mảnh đất này vẫn
ngày đêm nỗ lực dồn công sức bảo tồn và lưu
truyền tinh hoa nghệ thuật độc đáo cho thế hệ trẻ. Họ là
những nghệ nhân dân gian…
Lão “xà ích”
cuối cùng
Xe thổ mộ là loại phương tiện đi lại phổ biến ở Sài
Gòn – Gia Định và những vùng quê lân
cận vào những năm 40, thế kỷ XIX. Theo sử sách lược ghi,
xe thổ mộ bắt nguồn từ cỗ xe song mã của Pháp, sau
đó được người dân miền Nam chế tác lại phù
hợp với điều kiện và địa hình của miền quê
sông nước. Hình ảnh chiếc xe ngựa với những tiếng
kêu lách cách và cặp bánh gỗ to
đã trở nên thân thương, quen thuộc với bao thế hệ
người miền Nam. Trải qua thời gian, xe thổ mộ đã dần vắng
bóng, người ta chỉ có thể nhìn ngắm nó qua
những bức ảnh hay trong các viện bảo tàng văn hoá
dân gian. Vậy mà đến ngày nay, ở mảnh đất
Bình Dương có một ông lão ngoài 80
tuổi vẫn chung thuỷ một đời làm anh “xà ích”
(người đánh ngựa).
Chúng tôi tìm đến nhà ông Trần Văn Hai
– tức Hai Sộp (ấp Hưng Thọ, Hưng Định, Thuận An, Bình Dương) để
được gặp lão “xà ích” cuối cùng của đất Nam
bộ, người đã gắn bó hơn nửa cuộc đời với những chiếc xe
thổ mộ. Trong căn nhà cấp bốn chật hẹp, ông Hai
dành một phần trang trọng cho chiếc xe thổ mộ cổ, ông coi
đó như “báu vật” của người xưa truyền lại. Dù
đã trải qua gần 1 thế kỷ lăn bánh, nhưng chiếc xe vẫn
chắc chắn, không bị năm tháng làm hư hại. Nhấp ngụm
trà đặc quánh, ông Hai nhìn về hướng xa xăm,
hồi tưởng lại những năm tháng rong ruổi cùng chiếc xe thổ
mộ khắp miệt vườn Nam bộ.
Ông kể, nhà ông có ba đời làm nghề
xà ích, từ đời cụ thân sinh là nghệ
nhân Trần Văn Ký, học trò cưng của cụ Văn Văn Luốc,
ông tổ nghề chế tạo xe thổ mộ có tiếng của xứ Nam kỳ.
Ngày ấy, dân từ các tỉnh phía Nam đổ
xô về xưởng của ông đặt hàng làm xe ngựa
đông không đếm xuể. Xe của ông Ký vừa gọn nhẹ,
tiện dụng, bền đẹp mà giá cả lại bình dân.
Có năm, nhà ông phải thuê thêm 7 - 8
người thợ để phụ việc. Sau khi cha ông qua đời, ông Hai lại
kế nghiệp cha, vừa làm anh “xà ích” vừa tiếp quản
xưởng sửa chữa, đóng mới xe thổ mộ.
Vài năm trở lại đây nhiều người đến Bình Dương
lùng mua xe thổ mộ cũ về làm kiểng nên loại xe
này giờ cũng cạn kiệt. Nhiều chủ xe cũng giải nghệ, chỉ
còn ông vẫn đeo đuổi với nghề. Ông coi đấy là
cái nghiệp mà khi còn nằm trong bụng mẹ đã
nên duyên với nghề. Trong giai đoạn kinh tế khó
khăn, người dân không còn mặn mà với xe thổ
mộ, ông và gia đình phải xuôi ngược khắp nơi
tìm mối đặt hàng để giữ nghề. Tên tuổi của
lão nghệ nhân Hai Sộp đã đến với các đạo
diễn làm phim. Họ tìm đến ông thuê xe thổ mộ,
phục vụ trong các bộ phim về Nam bộ xưa. Ông Hai cũng từng
góp mặt trong nhiều bộ phim như: Công tử Bạc Liêu,
Đất phương Nam...
Hơn nửa đời người gắn bó với xe thổ mộ, ông đã sưu
tầm được những vật liệu chế tạo xe như: nhíp, trục, nhông…
ngót nghét trăm năm tuổi. Nhiều người đến hỏi ông
mua với giá cao, nhưng ông nhất quyết không
bán mà chỉ lưu truyền lại cho thế hệ con cháu về
sau. Ông có 6 người con nhưng chỉ có hai người
quyết chí nối nghiệp cha làm nghề chế tạo xe thổ mộ. Chia
tay chúng tôi ông Hai bùi ngùi rằng,
không sợ nghèo đói, chỉ sợ lớp trẻ sau này
không nhìn thấy xe thổ mộ, một nét sinh hoạt văn
hoá cộng đồng rất đặc trưng của vùng Đông Nam bộ
xưa, ký ức về xe sẽ phai mờ, rồi mất hẳn.
Nghệ nhân vẽ tranh
trên kiếng
Trên chặng hành trình đi tìm những nghệ
nhân giữ hồn Nam bộ xưa, chúng tôi xuôi theo
con đường tỉnh DT 745 đến thị trấn Lái Thiêu (Thuận An,
Bình Dương) để tìm gặp người thợ vẽ tranh trên
kiếng nổi tiếng một thời của đất Nam kỳ, nghệ nhân Trương Cung
Thơ.
Tranh kiếng là một loại hình nghệ thuật dân gian
xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XX, được người dân Nam
bộ ưa chuộng và xem như một nét văn hoá đặc sắc.
“Ngày trước, do nhu cầu của người dân cần các loại
tranh thờ, tranh phong cảnh để chưng trong nhà, thay thế cho
các bức tranh bằng giấy nhanh hỏng và không sinh
động nên cha tôi tự mò mẫm cách vẽ tranh
trên kiếng. Ban đầu ông chỉ vẽ trang trí trong
nhà nhưng dần dần được mọi người yêu thích
và đến đặt hàng ngày càng đông”,
ông Sáu kể lại. Công việc làm ăn phát
triển, ông Trương Tường (cha của ông Sáu Thơ) mở
rộng quy mô sản xuất, thành lập cơ sở vẽ tranh kiếng Mỹ
Tân và dạy nghề cho nhân công. Dưới bàn
tay đào tạo của ông, nhiều người đã đứng ra tự lập
xưởng vẽ tranh riêng. Sản phẩm tranh kiếng Lái Thiêu
được xuất khẩu sang nhiều nước như Thái Lan, Campuchia, Trung
Quốc…
Sau khi cha qua đời, ông Sáu tiếp tục nối nghiệp,
phát triển nghề vẽ tranh kiếng theo nhiều trường phái
khác nhau. Đến những năm thập niên 50 của thế kỷ XX, nghề
vẽ tranh kiếng gặp khó khăn, do chiến tranh ác liệt, kinh
tế sa sút, người dân không đủ khả năng chơi tranh
kiếng. Nhiều cơ sở vẽ phải chuyển nghề hoặc phá sản, chỉ
có ông Sáu vẫn “trung thành” với nghề cha
ông để lại.
Năm nay, dù đã ngót ngét 80 tuổi, nhưng
ông Sáu vẫn miệt mài bên bàn vẽ những
bức tranh công phu và tỉ mỉ. Trong đôi mắt tinh anh
của người nghệ sĩ già, dường như năm tháng không
làm tình yêu nghề suy giảm. Những trải nghiệm của
cuộc sống đã được ông thổi hồn vào những bức tranh
sinh động. Ít ai biết rằng, ông Sáu đã từng
phải làm chân cu li ở bến cảng, đạp xích lô
thồ hàng để kiếm tiền nuôi sống gia đình.
Cái nghề tranh kiếng có lúc thăng, lúc
trầm, nhưng ông vẫn một dạ thuỷ chung gìn giữ nghề cha
ông truyền lại. Đó là cái duyên,
cái nợ với đời
.
(Theo
Báo Nông Nghiệp Việt Nam)
Người
níu giữ hồn quê
Võ
Đông Điền
Giữa tháng 7 năm 2003, nhà văn Nguyễn Quang Sáng
có đến Bình Dương tìm tư liệu và cảm hứng
để viết một kịch bản phim về Bình Dương. Anh nhờ tôi
làm hướng dẫn viên với tư cách là dân
thổ địa. Sau khi đi một vòng quanh chợ Thủ Dầu Một, chùa
Hội Khánh, đình Tân An, tôi cho xe đi thẳng
xuống Bến Chành.
Con đường đến Bến Chành đất đỏ như son, hai bên đường
là hai hàng dâm bụt lá xanh mơn mởn.
Trên cái nền xanh non mơn mởn ấy lập lòe những
đóa hoa đỏ thắm điểm xuyết một cách tự nhiên
mà nghệ thuật. Bên trái là dòng
sông Sài Gòn thơ mộng, bên phải là
những bãi mía non tơ, những vườn cây xanh
mát.
Anh Sáng tỏ vẻ tâm đắc với cảnh này và
yêu cầu thêm:
- Nhờ cậu tìm cho mình một người đánh xe
ngựa. Phim sẽ bắt đầu từ đây với chiếc xe ngựa chạy trên
đường.
Tôi nghĩ ngay đến anh Hai Sộp, anh là bạn học của chị
tôi từ thuở nhỏ. Tôi cho xe chạy về phía chợ
Búng. Nhà anh rất dễ tìm, cứ qua khỏi cầu Ngang,
nhìn thấy nhà nào có chiếc xe ngựa đậu
trước sân, đó chính là nhà anh Hai
Sộp.
Khi tôi và anh Sáng vừa đến nhà anh Hai Sộp
thì cũng là lúc trời đổ cơn mưa. Tiếp chúng
tôi là một người đàn bà đứng tuổi, tôi
nghĩ đó là chị Hai, chị có gương mặt phúc
hậu và nụ cười rất tươi:
- Hai anh ngồi chơi, ảnh mới vừa qua chuồng ngựa. Để tôi
kêu sắp nhỏ gọi ảnh về.
Nhà anh Hai nằm sát quốc lộ 13 cũ, đất không rộng,
nên cả tàu ngựa anh phải đặt ở một khu đất vườn
cách nhà khoảng 200 mét. Việc chăm sóc
đàn ngựa và đóng xe ngựa, anh đều làm ở
đây. Chị Hai vừa rót nước, vừa kể thêm bằng một
giọng chân chất:
- Mấy lúc sau này, đám cưới nhiều người
không thích rước dâu bằng xe Huê kỳ, người ta
chỉ thích rước dâu bằng xe ngựa thôi. Có
đám thuê ảnh cả chục chiếc.
Anh Sáng nhìn tôi cười thích thú.
Có lẽ cuộc sống công nghiệp hóa khẩn trương
và tất bật quá, khiến con người ta có khuynh hướng
thích tìm về nhịp đập hồn nhiên, ít ra
là trên lĩnh vực văn hóa, để cho tâm hồn
mình dịu lại.
Bên ngoài mưa vừa dứt hạt, anh Hai cũng vừa về tới.
Tôi đứng dậy bắt tay anh và giới thiệu ngay:
- Giới thiệu với anh đây là nhà văn Nguyễn
Quang Sáng…
Chưa kịp nói gì thêm thì anh đã
ôm chầm lấy anh Sáng và tươi cười nói:
- Biết rồi, anh Sáng “Thời thơ ấu” đây mà.
Thì ra hai người quen biết nhau từ “Thời thơ ấu”. Đó
là vào khoảng đầu thập niên 1990, khi anh Hai Sộp
được mời xuống Long Xuyên tham gia đóng bộ phim Thời thơ
ấu, tác giả kịch bản Nguyễn Quang Sáng, đạo diễn Lê
Văn Duy. Thế là từ Bình Dương anh một mình rong
ruỗi trên chiếc xe ngựa đến Long Xuyên. Sáng sớm
thức dậy đánh xe đi, đến hơn 10 giờ trưa thì nghỉ; rồi
lại lên đường vào lúc xế chiều khi trời vừa dịu
mát, đến khoảng 6 giờ chiều thì người và ngựa
tìm chỗ nghỉ đêm để sáng hôm sau lại tiếp tục
cuộc hành trình. Cứ thế, ngựa chạy liên tiếp ba
ngày thì đến nơi.
Theo nhà văn Nguyễn Quang Sáng, làng Mỹ
Luông quê anh nằm bên bờ sông Tiền, chợ Long
Xuyên nằm bên bờ sông Hậu. Hồi nhỏ, cha anh thường
đưa anh đi trên chiếc xe ngựa có tên là xe
lá liễu, chạy bằng bánh xe hơi, băng ngồi có nệm,
mui bằng vải bố, khi mưa nắng thì lên giương lên,
mát trời thì hạ xuống. Chiếc xe ngựa mà anh Hai
Sộp đi từ Bình Dương đến Long Xuyên cũng nhằm thể hiện
cảnh này.
Từ khi có chủ trương đổi mới, kinh tế đất nước phát
triển, nhà nào cũng có vài ba chiếc xe gắn
máy để làm phương tiện đi lại. Số người có nhu cầu
đi xe ngựa này càng giảm dần. Những bạn bè đồng
nghiệp của anh cũng dần dần giải nghệ chuyển sang chạy xe ôm, xe
ba gác… Nuối tiếc về cái thời hoàng kim của xe
ngựa không còn nữa, bao nhiêu “đồ phụ tùng”
xe ngựa của bạn bè giải nghệ, anh đều thu mua lại chất đầy kho.
Trong kho đầy ắp những yên, cương, bao trá, lục lạc,
chuông, đèn… vô tình bây giờ trở
thành một “kho tư liệu” quý hiếm không dễ ai
có được.
Một dịp may tình cờ đã đến với anh. Đó là
vào năm 1990, khi một hãng phim truyền hình
Pháp mời anh hỗ trợ cho 9 chiếc xe ngựa để thực hiện bộ phim
Người tình (L’Amant). Cuối năm 1991, Người tình đã
được công chiếu lần đầu tiên ở Tp.HCM. Ngày
22-01-1992, phim được ra mắt tại Pháp, ngày 19-6 tại Anh,
ngày 30-10 ở Mỹ, bộ phim tình cảm lãng mạn
dài 115 phút này đã làm ngây
ngất công chúng thế giới và thành công
vang dội với doanh thu đến 45.323.211USD.
Thành công của bộ phim có phần đóng
góp không nhỏ của những chiếc xe ngựa Bình
Dương mà anh Hai Sộp là chủ nhân. Từ sau bộ
phim Người tình, cái tên Hai Sộp đã được
nhiều đạo diễn biết đến và đặt hàng.
Thế là, từ một y sĩ của Trung tâm y tế huyện Thuận An, anh
trở thành “diễn viên đánh xe ngựa”, đồng thời
là nhà cung cấp đạo cụ cho các hãng phim
trong và ngoài nước, khi những cảnh quay có sử
dụng ngựa hoặc xe ngựa.
Sau chuyến đi Long Xuyên lần đó, một tháng sau anh
lại một người, một ngựa đi xuống Cần Thơ để tham gia bộ phim Chân
trời nơi ấy của đạo diễn Trần Vịnh. Rồi sau đó là
hàng loạt các phim khác như Trường xưa kỷ niệm,
Giai điệu quê hương, Mùi đu đủ xanh, Người Bình
Xuyên… Ngoài việc đóng phim, anh còn đem
ngựa tham gia các lễ hội lớn như Festival Huế hoặc đóng
các kiểu xe ngựa theo đơn đặt hàng của các
hãng phim, các khu du lịch Bình Quới, Văn
Thánh… Anh cho tôi xem hình các kiểu xe ngựa
mà anh đã tự đóng như xe cá chiếc, xe
cá đôi, xe Ca-lech, xe lá liễu, xe kiếng, xe thổ
mộ… mỗi loại xe thích hợp với từng thời điểm lịch sử và
hoàn cảnh khác nhau.
Được biết cha anh cũng là một thợ đóng xe ngựa
chuyên nghiệp. Ông tổ của nghề này là
ông Quản Luốc ở Bưng Cầu, cha của anh cũng được học nghề
này từ ông Quản Luốc. May là còn anh để nối
nghiệp, mà tuổi anh bây giờ cũng đã quá lục
tuần.
Tôi và nhà văn Nguyễn Quang Sáng chia tay
anh trong một niềm cảm xúc khó tả. Trên đường về,
xe chạy qua Cầu Ngang, dọc theo rạch Vàm Búng, hai
bên đường vườn cây trái xanh tươi, những dề lục
bình trôi tản mạn theo dòng nước. Tôi chợt
nghĩ đến chiếc xe ngựa trong cảnh cuối của phim Trường xưa kỷ niệm cũng
được quay hình ở đoạn đường này. Trân trọng thay,
trong cái bộn bề của cuộc sống đời thường, trong cái tất
bật, hối hả của cuộc sống công nghiệp, vẫn còn có
một người âm thầm níu giữ hồn quê.