Nghệ thuật trang trí trong một
căn nhà cổ ở Bình Dương
VĂN THỊ THÙY TRANG
Tìm hiểu về các ngôi nhà cổ người Việt ở
Bình Dương, mà nét nổi bật và mang
tính đặc trưng của lối kiến trúc nghệ thuật phải
nói đến 3 ngôi nhà của họ Trần, nằm trong khu chợ
Thủ Dầu Một ngày nay. Trong đó, có 2 ngôi
nhà được công nhận di tích cấp quốc gia (nhà
Bác sĩ Trần Công Vàng và nhà
ông Trần Văn Hổ).
Ngôi nhà ông Trần Văn Hổ tọa lạc số 18 đường Bạch
Đằng, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, Bình
Dương. Ông Trần Văn Hổ (tự Đẩu) – nguyên là Đốc Phủ
sứ thời thuộc Pháp. Công trình được xây dựng
năm Canh Dần (1890), tháng Trọng Xuân (tháng 2),
nhằm niên hiệu Thành Thái thứ 2 cách
ngày nay (2008) là 116 năm. Công nhận di
tích quốc gia ngày 29-4-1993, tổng diện tích
còn lại là 1.296m2 .
Hiện nay, di tích còn lại là một ngôi
nhà chính, đây là ngôi nhà lớn
chủ yếu là để thờ cúng ở gian giữa. Ngôi nhà
trông bề thế và trang nghiêm, biểu hiện cung
cách tôn ti trật tự, nề nếp. Mặt chính diện
ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông
Sài Gòn để hưởng được làn gió mát
trong lành quanh năm.
Lối kiến trúc của ngôi nhà theo dạng chữ “Đinh”,
tổng diện tích xây dựng là 200m2, kiểu nhà
được người dân Thủ Dầu Một xưa rất ưa thích. Trước
sân được che phủ bởi cảnh thiên nhiên thu nhỏ của
vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ được trang trí đầy
đủ cảnh sinh hoạt “Ngư – Tiều – Canh – Mục”. Ngôi nhà
có dáng dấp nhìn từ ngoài vào hơi
thấp, với mái ngói rêu phong, tạo cảnh sắc
thiên nhiên của sự cổ kính, thanh tịnh tách
hẳn với ồn ào náo nhiệt của cảnh phố chợ bên
ngoài.
Bước vào bên trong là nét đẹp
trang trí thể hiện sự sung túc của ngôi nhà.
Nguyên vật liệu toàn là gỗ quý như Cẩm lai,
Giáng hương, Gõ, Sến, Mật… được sử dụng bài
trí lớp lớp, từ mái nhà xuống cửa võng
và cả bậc ngạch. Từ những song gỗ, đường nét ô
vuông đến các mảng phù điêu đều được bố
trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang
nghiêm, thể hiện phong cách vương quyền.
Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 2 chái
gồm 36 cột tròn. Mái ngói âm dương
dài thoai thoải và thấp mang đậm nét nhà
truyền thống người Việt. Trên nóc nhà có hồi
văn, hình bát quái. Loại nhà này
có nhiều ưu điểm so với các nhà cổ truyền
khác ở chỗ có bộ khung sườn cứng cáp, lòng
nhà rộng rãi. Kết cấu bộ vì kèo theo kiểu
nối cột cái với cột con bằng “giả thủ” tạo không gian
thoáng đãng, hệ thống kẻ ngòi phong phú
(theo lối kẻ ngòi đãng: ngắn, ráp, nối nhau) gắn
chặt xà, kẻ, bẫy vào đầu cột theo không gian 3
chiều. Kẻ, bẩy vươn qua không gian, ăn mộng vào đầu cột
tạo cho nghé kẻ thêm phần vững chắc ở điểm nối giữa
nách và cột. “Bẩy” (đầu kèo) ở đây được chạm
thẳng vào cục gỗ “Tứ linh”, xà nách thì
chạm Tứ thời, kẻ ngòi (thân kèo) thì
ngoài chạm ra còn tạo hình dáng uốn lượn
trông mềm mại.
Từ hệ thống mái vững chắc, có phần hơi thấp, bên
trong nội tự được ngăn đôi bức tường giả hình chữ U tạo
chiều sâu. Mảng giữa tường và khánh thờ là
các bức Hoàng phi được sơn son thiếp vàng,
các bức liễn bằng những câu đối cẩn xà cừ
đính trên cột.
Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm Thủ
quyển chạm nổi hình Tứ linh hoàng tráng, giữa bức
thủ quyển ấy là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị
thần được thơ. Phía trái là thờ thần Táo
với danh hiệu “Đông Trù Tư Mạng”, giữa là thờ trời
với danh hiệu “Hiệp Thiên Đại Đế”, bên phải thờ phúc
thần với danh hiệu “Phúc Đức Chánh Thần”, phía
dưới thờ gia tiên nhiều đời, hai bên nơi thờ chính
là hai câu đối:
Canh độc lưỡng đồ, độc khả vinh thân, canh khả phú
Cần kiệm nhị, cần năng sáng nghiệp, kiệm năng doanh.
Tạm dịch:
Cày ruộng và đọc sách là hai con đường: đọc
sách có thể hiển vinh. Còn cày ruộng chắc
là giàu có.
Hai chữ cần và kiệm thì vần (siêng năng) ta
có thể dựng nên sự nghiệp, còn tiết kiệm cũng
có thể đủ đầy.
Ở hai bên phải và trái, có hai bức thờ cẩn
xà cừ rất công phu và độc đáo. Bức bên
phải đề hai chữ “Hạc Toán” (sống lâu như tuổi Hạc), bức
bên đề “Qui linh” (tuổi thọ như Rùa thiêng). Bốn chữ
ấy đều cẩn ốc xà cừ màu ngũ sắc óng ánh
tuyệt đẹp với lối viết cách điệu, mỗi nét chữ là
hình ảnh của chim muông hoa lá tạo thành.
Hai bên mỗi bức thờ là đôi câu đối viết kiễu
chữ “Chân lư” (một loại chữ mà cho đến nay chưa đọc được),
cẩn ốc xà cừ nét chữ khó đọc thể hiện sự huyền
bí pha lẫn sự khéo léo của các nghệ
nhân tài hoa xưa.
Hai bên thờ chính, có cặp đối:
Hoa đường thụy ái hoàng khai phú hậu chi cơ
Đại địa linh chung triệu khải văn minh chi vận.
Tạm dịch:
Rực rỡ mây lành rộng mở nền phú hậu
Địa linh hun đúc gầy dựng vận văn minh
(ước mơ vừa giàu vừa có văn hóa).
Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng (phòng) ngủ
của chủ nhà (buồng ông và buồng bà)
bài trí 2 bộ ván nằm ngủ (dạng nguyên khối
gỗ). Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự
dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong
thi đậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn
có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu.
Đối xứng hai bên hông buồng ngủ là hai tủ đứng cẩn
xà cừ màu sắc sặc sỡ, tủ dùng bài
trí các vật dụng trong nhà.
Nét độc đáo của ngôi nhà là lớp cửa
thứ hai, tất cả đều chạm nổi, khắc chìm, khắc lộng… thể hiện
toàn bộ trên các khung cửa, cách cửa: khung
cửa chính dựng theo lối Tam quan, ở đây là một bức
tranh khá hoành tráng với cảnh có
hình bán nguyệt được trổ lộng, thể hiện cảnh lầu son
gác tía ở cung đình. Bề mặt của khung cửa chạm trổ
Tứ thời, bên trên là đề tài, bên dưới
đề câu đối, tạo nếp hài hòa sinh động qua cảm
giác khoảng thời gian của mỗi mùa.
Phần thể hiện các đề tài trên cửa được chia ra
các ô vuông. Ô chữ nhật thể hiện Tứ Linh: Long
với sóng nước vân mây, Lân với cuộc giấy, Qui
với chân đèn, Hạt với cây Tùng. Các
hoa văn tứ hữu “Mai – Lan – Cúc – Trúc” với những đường
diềm chi tiết khéo léo được phân bố hợp lý
nét chạm – khắc tinh tế.
Các tấm lá gió đường diềm ở giữa cột được gia
công, chạm lộng, hình chữ Thọ, các chắn song song
đều nhau, ngăn cách một cách chuẩn mực. Ở đây
công trình chạm lộng từ bẩy, kẻ ngòi, xà
nách, bao lam, khám thờ… song cũng có nhiều chủ đề
khác nhau nhưng vẫn tập trung của 2 đề án trang
trí chính: Đồ án trang trí theo các
đề tài tôn giáo phong kiến như: Tứ linh, Đồ
án trang trí dân gian lấy thảo mộc, hoa quả
làm chủ đề chính như: Bát bảo, Bát quả, Tứ
hữu, Tứ thời… Mỗi chủ đề là sự thể hiện một mãn tâm
hồn, một phần đời sống, một cảnh thiên nhiên với nhiều
ý nghĩa khác nhau.
Bộ phận văn hóa chữ Hán được thể hiện ở những tấm
hoành phi, cặp liễn, trên bức thờ, thủ quyển, tấm
hoành, câu đối. Những bài thơ, văn ở đây đều
được thể hiện ngắn gọn, súc tích. Có câu
mang tính ước lệ, khuôn sáo nhưng nội dung vẫn
giàu tính nhân văn, chẳng hạn để diễn tả nét
đẹp của mặt tiền ngôi nhà đã có câu:
Định tiền sinh thụy thảo
Liêm ngoại xuất kỳ hoa
Tạm dịch:
Trước sâu sinh cỏ lành
Ngoài rèm mọc hoa quý.
Ở nơi hàng cột nhì trong ngôi nhà trên
bốn cột có treo bốn bức tranh “Tứ bình” (thật đáng
tiếc nay chỉ còn lại 3 bức tranh) khảm ốc rất đẹp, đẹp đến từng
đường nét cẩn ốc rất tinh xảo nhuyễn – nhỏ và uyển chuyển
sinh động.
Bức thứ nhất vẽ chủ đề “Mai – Nhạn” với hai câu thơ:
Nguyệt Minh thời hữu Nhạn lai quy
Lan bất tri mai nguyên Nhạn ước.
Tạm dịch:
Vào đêm trăng sáng nhạn trở về,
Lan nào hay biết nhạn với mai đà ước hẹn).
Bức thứ hai vẽ chủ đề “Trúc – Phượng” với hai câu thơ:
Tập lai nghi phượng tảo tầm qui
Cúc tảo tri tha thường trúc thực.
Tạm dịch:
Đàn phượng tìm về vừa đúng lúc
Nhưng cúc cũng đã sớm ưa tìm ăn trái
trúc!
Bức thứ ba vẽ chủ đề “Cúc – Yến” với bốn câu thơ:
Chất bạn cúc li kiên vãn tiết
Hương tùy chu thất tán thu phong
Phong nguyên chấn lập li tao lí
Yến kết di phục cư bội trung.
Tạm dịch:
Cúc luôn giữ khí tiết
Hương vào nhà thơm theo gió thu
Thẳng tới chốn phòng văn
Hay dầu én đã đến nơi đây làm tổ.
Nơi lạc khoảng một trong ba bức tranh này đề: Quý Tỵ
Niên Khiến Tạo (1833). Như vậy, phần trang trí nội thất
không phải tiến hành cùng một lúc với
công trình xây cất ngôi nhà.
Một di tích kiến trúc cổ được đặt trên một nền văn
hóa nghệ thuật chạm trổ – điêu khắc gỗ thể hiện hài
hòa và điêu luyện, được tồn tại và bảo lưu
quý giá về chất liệu sử dụng cả về nghệ thuật trang
trí làm cho người xem khó có thể phân
biệt tách rời giữa ranh giới đâu là chạm và
đâu là khắc các đường nét sắc bén
tinh vi, tỉ mỉ đến từng đường nét uốn lượn từ lớn đến nét
nhỏ nhất, từ độ sâu đến nét cạn… tất cả đều thể hiện một
nét riêng độc đáo của loại hình nghệ thuật
dân gian truyền thống Việt Nam.
Cái đẹp của công trình kiến trúc ngôi
nhà là người chủ đã xác định được địa thế,
địa hình: đồi, dòng sông, nắng trời, trăng
và phong cảnh xung quanh hòa hợp. Đó là đặc
điểm truyền thống trong kiến trúc cổ của dân tộc Việt Nam,
kiến trúc ngôi nhà với sự hài hòa với
địa hình, phong cảnh và thiên nhiên
vùng nhiệt đới.
Giá trị kết cấu kiến trúc của ngôi nhà cổ
Trần Văn Hổ được thể hiện ở cách bố trí không gian
bên trong ngôi nhà. Nghệ thuật trang trí cho
thấy ngôi nhà vừa cổ điển, vừa sâu kín
và ấm cúng, thanh thoát. Nghệ thuật chạm trổ tinh
vi từ các vì kèo, bao lam, khán thờ – uy
nghi của tấm Thủ quyển chạm hình Tứ linh hoàng
tráng nhũ vàng, các bức hoành phi sơn son
thiếp vàng, các bức liễn cẩn xà cừ theo motyp
truyền thống như: Tứ linh, Bát bửu, Hồi văn, Chữ thọ…
cùng với những đường nét theo kiểu hình học. Những
cây trính đều được uốn cong và chạy chỉ, trên
thích với kiểu cánh dơi theo kiểu truyền thống từ miền
Bắc và miền Trung nước ta. Đặc biệt, là những cái
lá dung ở mỗi đuôi kèo được chạm khắc tinh xảo, thể
hiện nét tiêu biểu của kiểu nhà cổ Việt Nam,
nói lên óc thẩm mỹ đặc sắc của nghệ nhân đất
Thủ xưa.
Phần giàu có nhất của ngôi nhà được thể hiện
ở vật trang trí từ các bộ bàn ghế, tủ chè,
tủ thờ, hoành phi, câu đối, trường kỹ, ván nằm
(dạng nguyên khối gỗ) có niên đại cổ xưa và
giá trị nghệ thuật, kinh tế cao. Ngoài chất liệu gỗ được
sử dụng như sao, gõ, huỳnh đàn, cẩm lai, mật… được chạm
trổ với các kiểu nghệ thuật khác nhau: chạm lọng, chạm
nổi, khắc, chạm giũa thật tinh xảo, hệ thống các hiện vật trong
trang trí nội thất đều nâng lên được giá trị
đặc biệt về mỹ thuật lẫn niên đại.
Qua những nét đặc trưng nổi bật về trang trí mỹ thuật của
kiến trúc nghệ thuật dân dụng. Ngôi nhà cổ
Trần Văn Hổ là sự hội tụ mọi yếu tố văn hóa khác
nhau, phù hợp với điều kiện tự nhiên khí hậu thổ
nhưỡng, về kinh tế – xã hội thời bấy giờ. Với nghệ thuật chạm
trổ, điêu khắc ngôi nhà tồn tại trên
vùng đất trù phú (Phú Cường) đã đạt
đến đỉnh cao về nghệ thuật chạm trổ, điêu khắc gỗ ở thế kỷ XIX,
mang phong cách đặc trưng của địa phương đất “Thủ” – Bình
Dương ngày nay.
Hiện nay, di tích được Ban Quản lý di tích tỉnh
quản lý và khai thác phát huy tác
dụng giá trị nghệ thuật quý giá ấy. Giá trị
của ngôi nhà được bảo tồn và trùng tu,
tôn tạo ngày một đẹp hơn. Hàng năm ngôi
nhà đón tiếp nhiều du khách trong và
ngoài nước tham quan chiêm ngưỡng và nghiên
cứu. Tại đây, hàng tháng còn tổ chức lớp học
về nhạc cụ dân tộc, đờn ca tài tử Nam bộ… làm cho
ngôi nhà trở nên sinh động hơn và ngôi
nhà góp phần giúp giới trẻ tìm về với cội
nguồn, gần gũi với nghệ thuật truyền thống dân tộc, làm
giàu tính nhân văn tâm hồn Việt trong thời
hội nhập và phát triển.
Nguồn Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương (VĂN THỊ THÙY
TRANG)