Miễu
nhỏ
Lưu Thanh Bình
Ngôi miễu nằm ở ven đường,
hiện diện ở đấy đã hàng mấy mươi năm kể từ khi tôi
còn rất nhỏ, qua vài lần QL 13 được mở rộng, đến nay
ngôi miễu đã lọt thỏm hoàn toàn trong phần
lộ giới, sát mép đường. Cũng không biết thờ ai,
nhưng xây bên vệ đường thì chắc là thờ những
oan hồn tai nạn giao thông rồi. Nơi đây thuộc xã
Vĩnh Phú quận Lái Thiêu, một địa phương thuần
nông dù chỉ cách tua 18, ranh chợ Lái
Thiêu có hai cây số. Gọi là tua ( tour) mười
tám vì có cột cây số chỉ khoảng cách
từ đây đến Sài Gòn. Có người ngờ vực cự ly
này, nhưng đó là sự thực hay đúng hơn phải
nói là “khoảng cách từ đây đến Bưu điện
Sài Gòn” vì đầu thập niên 60 chưa có
cầu Bình Triệu và xa lộ Đại Hàn; xe cộ từ miền
Đông, miền Trung muốn vào Sài Gòn phải qua
cầu Bình Lợi, cầu Băng Ky, xuống toà Tỉnh Gia Định, đi
ngang Lăng Ông và trường Mỹ thuật Gia Định. Đường nhỏ hẹp
và ngoằn ngoèo. Thuở nhỏ, mỗi khi được ba chở đi chơi
Sài Gòn bằng chiếc Traction đen (tôi còn nhớ
bảng số là NBC 745), tôi mong đến Bình Lợi gặp
lúc xe cộ phải dừng lại để cho xe lửa qua cầu, là dịp để
bọn tôi thò đầu ra ngoài la hét ỏm tỏi, hoặc
đưa tay ra vẫy lia lịa những người .. không quen trên
các toa. Năm 1967, hãng RMK bắt đầu nắn tuyến QL13, giảm
bớt những khúc cua nguy hiểm và mở rộng mặt đường, sau
đó là xây dựng xa lộ vành đai (xa lộ Đại
Hàn) và cầu Bình Triệu, Bình Phước… đường
về Sài Gòn thâu ngắn lại nhưng tên tua 18,
tua 17 vẫn còn đến bây giờ.
Bên cạnh miễu là con lộ đất nhỏ hẹp dẫn vào
nhà cố và ngoại của tôi, hai bên là
những thửa ruộng lúa, vườn cây ăn trái, những con
mương dẫn nước rửa phèn xẻ ngang dọc nối nhau dài ra tới
ven sông Sài Gòn, cung cấp nước tưới cho
cánh đồng mía bát ngát rộng hàng
trăm mẫu. Hồi đó việc chuyên chở bằng đường bộ chưa
phát triển, phần lớn mía cây sau khi đốn, được
bó lại vác xuống ghe chở về những lò đường nằm rải
rác ven sông. Sau này những chiếc ghe bầu chở
mía với lốc máy mạnh vài mươi sức ngựa trở
thành phương tiện vượt biên lý tưởng, khi nằm trong
vàm sông trông dềnh dàng vậy nhưng ra tới
biển rộng thì chỉ như chiếc lá tre mong manh. Lò
thủ công sản xuất ra đường tán, thứ đường thô mộc
không hoa hoè bắt mắt nhưng chữ đường rất cao, thường được
dùng để nấu …chè, mùi thơm đặc trưng và nếu
bỏ thêm vào nồi vài ba lá dứa nữa thì
thơm hết biết. Có thể nói đường tán chính
là “người trong mộng” hay vị cứu tinh của những ai từng trải qua
cảnh cá chậu chim lồng. Cắn cái bụp và ngậm
mà nghe chất ngọt chảy dần xuống cuống họng. Quy trình
chế biến cũng đơn giản, người ta dùng che ép đường
mía chảy thành mật vào những chảo gang lớn, nấu
cô lại sền sệt rồi múc bằng gàu cán
dài đổ vô khuôn nguội lại là thành
đường tán. Thuở nhỏ bọn tôi hay lân la xin mấy
chú nhân công dễ tính được khoắn những
khúc mía vào chảo để có một thanh kẹo mạch
nha dài cả thước, đó là một trong những trò
vui ngày hè của bọn mình. Dĩ nhiên lò
đường thủ công cũng có cái dở là ô
nhiễm môi trường và không bảo đảm vệ sinh, nhưng
dù sao cũng đã một thời vang bóng, tạo ra
công ăn việc làm cho không ít người dân
nơi đây. Thạnh Lộc hiện vẫn còn chợ Đường, bán đủ
thứ nhưng không còn bán đường (tán ) nữa.
Sau này, khi ngoại tôi rời Miễu Nhỏ dời về chợ Lái
Thiêu sinh sống thì ngôi nhà rộng chỉ
còn bà cố sống thui thủi một mình. Nhà cố
xây theo kiểu xưa, ba gian hai chái, mái
ngói âm dương, vách ván tắp, cột gỗ kê
tán bằng những viên đá xanh, nền đất lâu
ngày lên vảy rồng, từ ngoài sân nắng
chói khom người bước vào qua ngạch cửa gỗ nhưng
dòm không thấy cánh cửa nào cả. Nghĩa
là nhà cố mở cửa quanh năm? Thật là một
khái niệm lạ lùng đối với dân chợ như bọn
tôi. Và cũng giống như bao nhiêu ngôi
nhà xưa khác, chỗ trang trọng nhất giữa nhà
là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, trước có
cái bàn dài và mấy chiếc ghế dựa, hai
bên là hai bộ ván gõ. Trên vách
treo đầy những tranh ảnh kể lại Sự tích Trầu cau, Phạm
Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Thạch Sanh
chém chằn…kèm theo mấy câu thơ minh hoạ. Truyện
dân gian có mục đích khuyên răn người ta
làm lành tránh dữ, phù hợp với tâm
lý đơn giản của người dân quê là đoạn kết
luôn luôn phải có hậu: kẻ dữ gây ra tội
ác bị trừng phạt, người ngay được giải oan và hưởng
phước. Thiện ác thật rạch ròi phân minh. Nên
có trường hợp đám hát về cúng đình,
mấy tay đóng vai phản diện ra chợ bị mấy bà mặt hầm hầm,
lườm nguýt kêu bằng “thằng này, thằng nọ”…
có khi còn bị ăn củ chổi nữa chớ.
Ngoài hàng hiên,dọc dài theo vách
là mấy cái lu mái vú rất lớn, nắp đậy bằng
đất nung dùng để chứa nước mưa uống quanh năm. Sau này
trong các khu du lịch sinh thái, nhà nghĩ miệt
vườn người ta hay phục dựng hình ảnh cái khạp nước với
nắp đậy bằng sành , bên cạnh là cái
gáo dừa có tra cán, úp lên cây
cọc tre bên cạnh. Cùng với cỗ xe ngựa, bánh xe
bò, chiếc đèn bão, bộ ván ngựa… đó
là những hình ảnh làm gợi nhớ lại bao kỷ niệm xa
lắc xa lơ thuở nào tưởng đã mất đi vĩnh viễn. Lại nhớ
chuyện vui ông thầy bùa viết sớ, không biết viết
tên thân chủ là Lon (Loan) nên vẽ hình
cái lon, rủi mực chảy dài thành ra thêm
cái cán, khi đọc lại thành Gáo, bị cự nự
quá ông mới nói chữa thẹn rằng nhiều chuyện
quá lon hay gáo gì cũng để múc nước
thôi mà!
Ngày thường nhà cố chỉ sinh hoạt nhiều ở nhà dưới,
là cái chái bếp bên hông thông
với nhà trên bằng cửa ngách, cũng có một bộ
ván ngựa để cố ngồi têm trầu. Ở thôn quê, bếp
nhà nào cũng nấu củi nên có nét giống
chung là mái bếp đều ám khói đen thui.
Nét độc đáo nữa là cái vỏ bình
trà, làm bằng trái dừa bị khoét rỗng
có thể giữ cho nước trà ấm nóng rất
lâu…Những kỷ niệm xa xưa, khi ẩn khi hiện vì bụi thời gian
đã phủ mờ, nhưng tôi vẫn còn nhớ cái cảm
giác thích thú được về Miễu Nhỏ ăn giỗ.
Đám giỗ ở thôn quê, mọi việc được chuẩn bị từ mấy
hôm trước. Ngày thường bầy gà được thả lang
ngoài vườn; muốn bắt phải chờ ban đêm, khi chúng
đang đậu ngủ trên cành cây, nhẹ nhàng
thò tay tóm lấy cặp chân là xong, nhốt trong
giỏ chờ hoá kiếp. Củi khô sắp gọn sau hè, dao thớt
đều sẵn sàng…. Nhà bếp là nơi tập trung đông
người nhất, tiếng cười nói râm ran không dứt.
Đám giỗ cũng là dịp để mấy bà mấy cô
hàn huyên tâm sự, thỉnh thoảng có đứa trong
bọn tôi chạy ngang qua là má ngoắc tay kêu
lại, bắt khoanh tay quay qua bên đây thưa dì, quay
qua bên đây thưa mợ…mà với trí óc non
nớt bọn tôi không làm sao nhớ hết. Đa phần họ
là con gái , con dâu của bà Bảy, bà
Mười; hai bà là em của bà ngoại tôi. Sau
đó là màn sờ đầu, vuốt tóc, nắm tay,vỗ
đít và nhiều nhứt là câu “ Chèn ơi ,
sao mà lớn mau quá vậy học lớp mấy rồi con” hay “ Trời ơi
mau quá, vài năm nữa là trổ mã rồi
nghen”.v..v…
Đến giờ ăn, bọn tôi được dọn cho ăn trước.Chăn cho khoản hai ba
chục đứa xi lố cố ăn không phải dễ, bởi vì chúng
tôi ăn không theo trình tự nào cả.
Bánh phồng tôm ăn với gỏi thì chơi cho sạch
bánh phồng trước, gà xé phay thì ăn đầu
cánh cẳng trước, ra gu thì ăn nước chấm bánh
mì không ăn cái, bún gạo xào
lòng gà thì chỉ ăn bún chan nước tương,
bánh thì có bánh tét
chuối,bánh ú, bánh cấp, bánh bò,
bánh thửng ( hay thuẩn?), bánh da lợn. Đủa muỗng thi nhau
rơi loảng xoảng, nước tương nước mắm nhểu trúng đầu là sự
thường, và nếu nghe cái bộp nghĩa là có đứa
làm bể tô (!). Nhớ lại hồi nhỏ hay bị hù ăn
chân gà bị …run tay run chân, sau này mới
biết là do mấy ông nhậu sợ mất phần nên phao tin đồn
nhảm.
Mấy năm chiến tranh, khoảng cách nông thôn và
thành thị làm mối quan hệ thân thuộc mờ dần. Miễu
Nhỏ nằm trong vùng xôi đậu, không còn thanh
bình như xưa. Dù sau này, khi học thêm luyện
thi ở Sài Gòn, mỗi ngày phải hai lượt đi về qua
Miễu Nhỏ nhưng tôi cũng chỉ liếc mắt nhìn qua một
cái rồi thôi. Con lộ đất dẫn vào nhà cố vẫn
im lìm hiện diện với hai hàng cau trầm mặc như thuở
nào, ngay cạnh con đường cái với nhịp sống ồn ào
hối hả ngày đêm không dứt. Ôi một khoảng
cách quá gần mà lại xa biết bao nhiêu.
Nhớ năm đó cố đã hơn 80 tuổi mà vẫn còn
có thể đi bộ từ nhà lên chợ, xách theo từng
bó mía lau, bó rễ tranh trắng phếu và bọc
mận xanh ngọt lịm. Có lẽ cố phải chuẩn bị món quà
từ hôm trước, rửa từ trái mận, so từng khúc
mía, đào rửa phơi ráo từng cọng rễ tranh. Nước mắt
chảy xuống, bao giờ người già cũng nghĩ về đám hậu sinh
trước. Phải chăng đó cũng là quy luật của tạo hoá
? Nhận quà thì mừng rỡ nhưng lũ cháu chắt vô
tình đâu biết cố còn phải về; cũng đi bộ, đường xa
nắng gắt, tấm lưng còng với hai lớp áo, chiếc khăn vải
sọc ca rô nhỏ hai màu trắng đỏ bắt chéo trên
đầu, chiếc nón lá sờn vành ngã màu
ngà cũ kỹ…
Một buổi chiều về thăm quê, ra đứng ở bờ sông gió
mát thổi lồng lộng, dòng nước chảy mang theo những dề lục
bình trôi lững lờ về nơi vô định. Sông
Sài Gòn đến đây đã mở ra rất rộng nhờ được
tiếp nước của các chi lưu, nên khung cảnh có
nét giống hao hao với miền Tây. Cũng tiếng bìm bịp
gọi nước âm vang bờ bãi, cũng đám dừa nước chắn
sóng ven bờ, cá thòi lòi chạy trên
lớp sình bên lở bên bồi, và mấy nhánh
mù u nghiêng mình soi bóng bên bờ
rạch. Xa xa giữa dòng, mấy chiếc xà lan đang tranh thủ
chạy xuôi theo con nước lớn, chở cát đầy khẳm tưởng chừng
chỉ một đợt sóng ngược vỗ mạn là xuống thăm hà
bá, vậy mà chúng vẫn lù lù tiến
lên thật kiên định ( hay ngoan cố ?). Bên kia
là Ba Thôn, vùng đất thuộc Mười Tám
Thôn Vườn Trầu nổi tiếng, liền kề với chiến khu An Phú
Đông, một vùng chuyên canh cây mía xen
với trầu cau và lài.
Dân gian có câu: “ Tấn về nội, thối về ngoại”, bởi
vì từ bao đời nay, quê ngoại lúc nào cũng
đồng nghĩa với bao dung đôn hậu, về ngoại cũng là về với
những thú vui bình dân giản dị. Mẽ cá con
kho quẹt ăn với cơm nguội ngày mưa dầm, nồi canh chua lươn với
nguyên liệu ngoài vườn gồm me chua,bắp chuối, bạc
hà, rau thơm, giá sống, ớt đỏ, cà chua, cà
bắp và dĩa nước mắm sống, vừa ăn vừa hít hà chảy
nước mắt vì cay và nóng. Hay lội mương bắt ốc bu
ngâm nước vo gạo dầm ớt cho nhả nhớt, rồi hấp với lá sả
lá chanh hái ngoài vườn. Ốc luộc chấm với nước mắm
hay muối tiêu chanh…
Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ…
Quê ngoại đơn giản mộc mạc vậy đó nhưng chung thuỷ
chân tình biết bao. Gã con đi,có lẽ người mẹ
nào cũng ấp ủ hoài mong ngày con mình về
chơi, mang theo đàn con nhỏ cho biết bên ngoại. Mà
thường một năm chỉ có hai ngày như vậy thôi:
ngày Tết và ngày giỗ…
Má ơi đừng gã con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
( 06 – 2010)