Khai
Bút Đầu Xuân
Lưu thanh Bình
*
Năm nay nghĩ Tết kéo dài, nhờ vậy ở các
bến
xe đò, ga xe lửa bớt đi cảnh chen lấn. Sau ngày
cúng tổ thợ may, thợ mộc đã thấy công nhân
thu xếp đồ đạc lục tục về quê. Việc làm giãm nhiều,
cuối năm không còn tăng ca tăng giờ. Ở các khu
công nghiệp cũng không còn cảnh đình
công đòi tăng lương, giãm giờ làm, cải thiện
chế độ làm việc như trước … Ngược lại, một số có
tâm lý ngán ngại bị cho nghỉ việc vì
lý do không có đơn hàng. Đây là
chiêu quen thuộc của các doanh nghiệp nhỏ Đài Loan
để né lương tháng 13 và thưởng tết. Hôm
trước vừa cho nghỉ việc một số người cũ, hôm sau lại yết
thông báo tuyển người mới ! Mùng 2 chợ bán
lai rai, đến mùng 4 thì bán đầy.
Hôm rồi trên báo mạng VN có nhiều tranh
luận về việc nghỉ Tết âm lịch kéo quá dài,
làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất chung, nhất
là gây khó khăn cho các đơn hàng xuất
khẩu. Có ý kiến đề nghị gộp ăn Tết ta ( thực ra là
Tết Tàu) vào Tết Tây luôn. Có hai
nhân vật nổi tiếng là bà Phạm Chi Lan và
tiến sĩ Võ Tòng Xuân ủng hộ ý kiến
này, nhưng số phản bác đông gấp bội. Bên phản
bác thì vin vào truyền thống văn hóa
dân tộc, bên cải cách ( đa số ở miền Nam) thì
dựa vào xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu mà VN
là một nước nghèo mới gia nhập. Mỗi bên đều
có lý lẽ riêng xem ra thật khó dung
hòa. Có lẽ Nhật là trường hợp đặc biệt vì
dân tộc ấy có tinh thần độc lập rất mạnh, nên
đã mạnh dạn bỏ Tết Tàu mà ăn Tết Tây từ thời
Minh Trị, còn Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu quá
nhiều nên khó mà bỏ được. Đau đớn nhất là
bài học từ cuối thế kỷ thứ 19 : trong lúc Nhật cải
cách theo khoa học phương Tây để trở thành một
cường quốc kinh tế thì Việt Nam bắt chước mấy ông “ con
trời” bế quan tỏa cảng, từ chối mọi cơ hội giao thương bên
ngoài. Có lẽ dịp tốt nhất để thí điểm việc ăn tết
theo Tây là thập niên 80 của thế kỷ trước, nhưng cơ
hội ấy qua rồi. Cũng cần nói thêm là các
nước khác quanh ta như Campuchia, Lào, Thái Lan,
Philippine, Malaysia, Indonesia, Miến Điện ( trừ Singapore) đều
không có tục lệ ăn Tết theo lịch Tàu. Các
nước Nam Á đều lấy lễ hội mừng nước ( té nước) hoặc mừng
gặt lúa mới làm ngày Tết, như Campuchia có
hai cái Tết là Chôn Chơ năng – Thơ mây
và Óoc Om Bóoc. Chỉ có người Việt và
người Tàu ở Phnompenh là còn giữ tục ăn Tết
Nguyên Đán thôi.
Ngày tháng qua đi, hôm nay đầu tuần, âm
lịch đã sang “mền” chứ không còn “mùng” nữa
nhưng hơi hướng Tết vẫn còn lảng vãng. Ở đất Bình
Dương này, Tết còn được kéo dài thêm
đến ngày rằm tháng giêng, với lễ hội Cộ Bà
nhộn nhịp thu hút hàng vạn người. Lễ hội vốn là
của người Tàu di dân mấy thế kỷ trước, thờ cúng
Bà Thiên Hậu phù hộ độ trì cho “ thuyền
nhân” vượt biển an toàn và sinh sống, làm ăn
gặp nhiều may mắn trên vùng đất mới. Có lẽ hồi đầu
chỉ có Lễ thôi, nhưng nay phần Hội lại lấn sang phần Lễ,
với điểm đỉnh là rước cộ ( kiệu ) bà du Xuân,
là dịp cho mọi người thỉnh lộc, cầu gia đình bình
an, mua may bán đắt. Lễ hội nay đã hòa nhập
vào sinh hoạt văn hóa Việt truyền thống để trở
thành một tài sản chung của dân tộc. Vài
mươi năm sau này, chùa Bà Lái Thiêu
và chùa Bà ở Búng cũng tổ chức rước Cộ
Bà, nhờ vậy mà lượng khách thập phương tham dự
được chia ra giúp giảm tải cho địa điểm chính ở
Bình Dương, chứ nếu tất cả dồn về đây thì
không biết đường phố nào chứa cho hết: xe gắn máy
nhiều như củi còn những con đường chính thì đầu
người lố nhố tưởng có thể (xin lỗi) đạp trên đó
mà đi được.
Mình nhìn nhận tính độc đáo của Lễ Hội
qua một khía cạnh khác : tính tổ chức khoa học,
chính xác và bao quát trong việc huy động
sức người, sức của trong một thời gian ngắn. Từ việc chăng đèn
kết hoa đường phố đến việc tạm ngăn lưu thông, từ việc huy động
lực lượng giữ gìn an ninh trật tự cho khách đến viếng
Bà niệm hương, vay lộc đến việc ngăn ngừa những thành
phần trộm cắp, móc túi, xin ăn … nhất là
khâu
giữ an toàn cho cả đoàn diễn hành cả ngàn
người kéo dài hàng cây số trước hàng
vạn người xem. Những ai đã từng tham gia tổ chức các sự
kiện hoặc các Huynh Trưởng Hướng Đạo có kinh nghiệm tổ
chức hội trại mới thấy hết nổi khó khăn của ban tổ chức. Tất cả
đều phải lên kế hoạch từ nhiều ngày trước, cố gắng hạn chế
tối đa những bất trắc để giữ tiếng tốt cho năm sau. Nói dễ chứ
làm không dễ chút nào, ở đây phải
khâm phục tính đoàn kết của người Hoa, trên
dưới một lòng nên mọi việc mới răm rắp như xếp bài
domino, khác hẳn người Việt chúng ta, cứ ba người
là đã có hai ý kiến rồi.
Ở Lái Thiêu, các đoàn lân, sư,
hẩu đi ăn “lẽ” từ nhiều ngày trước, cho đến ngày rằm
là tập trung đông nhứt. Xế chiều, khi con nước chớm lớn
là đến giờ rước kiệu diễn phố. Các đoàn lần lượt
vào lạy Bà và nhận thù lao, xong rồi ra sắp
hàng đợi đến lượt diễn hành. Có những quy định như
không được vào nhà gia chủ múa ăn tiền
làm gián đoạn những đoàn đi sau, cù
phải đi sau hẩu, các tố nữ ( trinh nữ) gánh lẵng hoa đi
cạnh kiệu Bà. Những năm trước, Bác Hai Vốn với
chòm râu bạc cưởi ngựa giấy, tay cầm phất trần tay cầm bức
liễn, được ưu ái của Ban tổ chức cho đi hàng đầu nhận
được nhiều lời trầm trồ của người xem. Nay Bác đã quy
tiên nhưng nhiều người xem Cộ vẫn còn nhắc với lời thương
mến ngậm ngùi, tiếc cho Lái Thiêu mất đi một dị
nhân có nhiều công sức đóng góp cho
địa phương.
**
Nếu gọi Tổ Quốc là quê hương xứ sở của ông
bà, cha mẹ ( fatherland, motherland) thì nhiều gia
đình người Hoa phải nhận Việt Nam làm Tổ Quốc vì
họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống trên đất
này, thậm chí con cháu họ không còn
biết nói và viết tiếng Hoa nữa. Dù vậy nhiều người
vẫn xem Hoa lục là Tổ quốc. Đó là nhờ những
giá trị văn hóa truyền thống từ đời này sang đời
khác không bị mất đi mà được giữ gìn cẩn
thận trong từng gia đình. Ông bà chuyển cho cha mẹ,
cha mẹ chuyển cho con cháu, chắt chút chít …cho
nên trải qua hàng trăm năm mà không bị mất
gốc. Theo tôi, không có gì để dị ứng
vì tôi ủng hộ tính đa dạng trong kho tàng
văn hóa dân tộc. Thuở còn đi học THĐ, một ông
bạn học gốc Hoa của tôi còn lên gân rằng tao
là người Tàu vì ba má tao là người
Tàu, tao chỉ mượn đất VN tụi bây để sinh ra và lớn
lên mà thôi. Thực ra tôi nghĩ bạn chỉ mượn
ý của mấy tay theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà
phát biểu chơi thôi, chứ trong giấc ngủ của bạn vẫn hiện
về mấy cảnh chọi dế, bắt ve hay tắm sông, trộm sắn …. thời thơ
ấu,
hoặc những kỷ niệm đầy ăm ắp với bạn bè thuở cắp cặp đến trường.
Cách xa vạn dặm nhưng làm sao quên được bạn
tôi ơi.
Tổ quốc là một khái niệm mang tính trừu tượng
chứ không cụ thể như đất nước, quê hương, dân tộc,
lãnh thổ …Tổ quốc là những di sản lịch sử văn hóa
kế thừa qua nhiều thế hệ, là kết tinh của hồn thiêng
sông núi, là vốn liếng nghìn đời do cha
ông để lại. Lãnh thổ không còn (như tộc Do
Thái) nhưng Tổ quốc còn, dân tộc sống rải
rác nhiều nơi (như tộc Hán) nhưng vẫn chung một Tổ quốc,
chính thể có thể thay đổi nhưng Tổ quốc là vĩnh
hằng, ngược lại nhiều người sống chung trong một quốc gia, chung một
quốc tịch nhưng không cùng một Tổ quốc. Tổ quốc
không của riêng ai.
Nhớ một lần, nhà văn Sơn Nam có kể câu chuyện
đối đáp giữa anh cảnh sát khu vực và ông thợ
hớt tóc, chuyện rất đời thường nhưng hết sức thâm
thúy nên nhớ lâu. “Tiệm” của ông nằm dưới
bóng mát cây đa cổ thụ thuộc quận 1, trung
tâm thành phố Sài Gòn, rất đơn giản chỉ gồm
một tấm kính được móc treo bên hông tường
nhà người ta và một chiếc ghế nhựa, nhưng chiếc ghế lại
đặt trên vĩa hè, là phần đất công cộng do
nhà nước quản lý. Rủi thay chỗ ấy bị nhà nước giải
tỏa trong chiến dịch gọi là “ đường thông hè
thoáng” tức là trả lại lòng lề đường cho người đi
bộ. Trong lời trần tình của người thợ hớt tóc có
nhắc đến hai từ “Tổ Quốc” khiến cho anh cảnh sát cảm thấy
khó chịu, mới hỏi vặn lại ông hiểu thế nào
là Tổ Quốc ? Câu trả lời hết sức thực tế, dù
không được văn hoa trau chuốt như các nhà văn, thi
sĩ nhưng rõ ràng, cụ thể : Tổ Quốc là nơi
người ta có được một việc làm đàng hoàng
lương thiện không bị làm khó dễ, sở hữu một nơi gọi
là nhà để chui ra chui vào mà không
sợ bị thu hồi giải tỏa, con cháu lớn lên được dạy
cách sống làm người có đạo đức. Thật tuyệt !
Ngày nay trẻ vào lớp một đã được dạy
yêu Tổ Quốc … nhưng hãy thử hỏi một cô giáo
định nghĩa thế nào là Tổ Quốc hoặc tại sao người Việt gọi
nhau là “đồng bào”. Biết chết liền !
( 2 – 2014)