Bình dương xưa và coi
hát thuật sơn đông
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời
một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu
có đoàn sơn đông mãi võ về chợ Bình dương mình, làm bà con và nhất là đám
con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng
đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông”
là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu
diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình dương
mình lúc đó thì hộp chợ buôn bán buổi sáng , một hai giờ trưa là chợ ‘’giản’’
từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét
dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều
trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác
nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát,
và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống,
tiếng chập chỏa đánh lên.
“Thưa bà con cô bác , anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng
tùng , lùng tùng xèng!), thưa các ông già anh hề lập lại thưa mấy ông
già (lùng tùng , lùng tùng xèng!), thưa mấy bà già … anh hề lập lại thưa
mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!), thưa các bác …, thưa các chú …
, thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái
…, thưa mấy … mấy em con nít .. mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và
trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại
thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung,
tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! đau cái cổ … lung tung,
tung! đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về
xài …tung tung, tung! không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước
mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau,
tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn
tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “bán tui hai gói”, “tui một gói”, … Số
người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc
đến: “Bên này hai gói” trống đấnh lên... lung tung, tung! này anh ba, “bên
kia một gói!” lung tung, tung! này anh năm, hoặc “bên nây mua!”, “bên kia
mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lổ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); đây
cũng là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang
loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại,
chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy
tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng
le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt,
thuốc xổ lải, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm
mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lải mộng dừa” , kể lại bà con đừng
có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em( có bụng bư bự)
cho uống thuốc xổ lải “biểu diển”. Các em biểu diển viên, tuột quần ngồi…đưa
cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lổ đít mấy
em ra một nùi lải, lải kim , lải đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vổ tay nhiệt
liệt hoan hô.
Xong màn biểu diển, tới cái màn đi xin tiền, chổ này là chổ vui nhất
đây. Họ dẩn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái
nón, đi xin tiền! mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái
có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù à
hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi, Vì quá khoái và thương
voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem
lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy
chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi
cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia
sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội
chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nữa dòng
sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hốc Môn mất
khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến
giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình
vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi
mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm
dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy
tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và
ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò
này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chóp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng
thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một
thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu
bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ
tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lổ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’
như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình
trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để
lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng
, mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
****
Bình Dương chợ Thủ xưa và … Đèn ba
ngọn.
Lâm Quang Khải
Xưa thì cảnh như trong hình này, cái cột như cột chơi bóng rổ đó . Sau đó
thì người ta xây một “cột đèn đường” chính giữa một cái nền cao cao và tròn
bằng xi măng, đường kính khoảng năm sáu thước, mà dân Thủ mình gọi là đèn
ba ngọn, vì một cột đèn mà phần trên có ba ngọn đèn.
Xin mời các bạn cùng tôi dạo bước vào tấm hình ngày xưa đó.
Xưa, ta nghe:
Đèn Sai gòn ngọn xanh ngọn đỏ, đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu.
Em về em học chữ nhu. Bốn phương anh vẫn đợi, ngàn năm anh vẫn chờ.
Nay, nghe lại như vầy.
Những thành phố em sẽ đi qua. Ðây Ba-Lê, đây Luân Ðôn, đây Vienne
và …mỗi nơi đâu dân Việt mình, khi tản mạn bốn phương , dừng chân lại ….
Đèn thế giới ngọn xanh ngọn đỏ.
đèn ba ngọn, ngọn tỏ ngọn lu,
dẫu đi anh học chữ Tây,
chử Anh chử Nhật cũng là … chử nhu.
Người theo “Cảnh”… , chậu méo, chậu tròn … “thân” đành theo vậy, méo tròn
cũng ‘’chịu thôi’’. Cảnh, xứ, trần dù thay thay đổi đổi,’’ tâm’’ dân Bình,
xứ Thủ vẫn còn như xưa ...
Bà con viễn xứ đâu đâu.
Bốn phương chợ Thủ vẫn chờ, ngàn năm Bình Dưỡng vẫn đợi người về … bến xưa.
Có đâu đẹp bằng…
Ngọn đèn ba ngọn ngày xưa ấy, soi cho ta… Ta đã thấy những gì trong tâm
khảm . Và ta đã thấу những gì trong đêm xưa, ngày củ đó?
Gió lòng sông gió sao mà nhẹ thổi, làm ánh đèn Ba ngọn ngày xưa…
Thổi đi tám hướng ngàn phương
Ngàn phương tám hướng…
nay,
nương về chốn xưa.
Về chốn xưa, tôi dựng lại cảnh, người; bà con : nay, dòm lại… cảnh củ người
xưa, nhen.
Thường thì đúng chín giờ đêm, qua cái loa phóng thanh ở đèn ba ngọn, ta nghe
như vầy : đây là đài phát thanh SG, xin thông báo với thính giả, bây giờ
là 21 giờ, xin bà con vui lòng vặn âm thanh vừa đủ nghe, để không làm phiền
hàng xóm đang cần im lặng để nghỉ ngơi. Sau đó vài phút, thì loa phóng thanh,
đầu chợ dưới, chợ trên đều tắt. Và bà con trong xóm trong làng, thường thì
“làm theo ra đi- ô” dặn, là tắt âm thanh, để cho bà con nghỉ ngợi. Bà con
xóm làng và chính quyền xưa, họ còn tôn trọng lẫn nhau lắm.
Sáng thì khoảng sáu bảy giờ, (xin bà con mở bản nhạc này … để nghe âm thanh
của ngày xưa khoảng một ngàn chin trăm năm mươi mấy (1955 – 1960…)
Đèn ba ngọn sang sáng nghe loa hát như vầy:
Rừng xanh gieo bao sức sống, ú u ú u
Ngàn cây xôn xao đón hương nồng
của vầng thái dương hồng
bừng lên trời Đông.
Cỏ cây vươn vai lên tiếng, ú u ú u
Cùng bao nhiêu chim chóc tưng bừng
dậy sau giấc đêm dài
triền miên triền miên.
Đèn ba ngọn ban ngày cho nhạc vui tươi để chào đón một ngày mới. (1) Và
chợ Thủ Bình Dương ta, bắt đầu một ngày mới trong tiếng nhạc vui tươi đó.
Cảnh nhộn nhịp của bạn hàng nhóm chợ, ra sao ? khoan nói vội …Ta đi coi người
nhàn nhã uống cà phê nhen… mùi cà phê bí-tất, bánh bao, xíu mại dà cháu quẩy,
buổi sáng ở tiệm Nhơn Hòa, ( khoảng giửa chợ, đường Thái Lập Thành) ‘chửa’
uống mà đã nghe đã thơm lừng trong bụng ; Thấy dân “khủ” (Thủ, BD) mình
uống cà ‘phe’, sao mà nghe thương làm sao mà thương! Thường thì… vì ít tiền,
họ kêu một cái ly cà phê đen nhỏ. Ly cà phê bóc khói nhè nhẹ được đưa ra;
tay chẩm rãi đổ ly, nước cà phê vào dĩa, ly thì tạm để trên bàn, cầm cái
dĩa … cẩn thận uống từng hớp một, để nghe mùi cà phê, để không nóng quá mà
cà phê đủ ấm bụng. Tôi hay nhìn họ, vừa uống vừa “”suy tư”, khuôn mặt đâm
chiêu, nghĩ hoàn cảnh gia đình bẩn chật, hoàn cảnh khó khăn hay vận nước
chinh chiến điêu tàn ?... tôi tự hỏi ở lòng mình như vậy, dù lúc đó tôi còn
nhỏ lắm. Mấy đưa em tôi hay chọc tui ba cái vụ nầy. Nói ảnh uống cà phê thì
phải chan vô dĩa mới húp, ngồi thì phải gát một chân thì lên ghế! , thấy
ông xe ngựa, ông đạp xe ba bánh, gặp mấy ông bà già ... thì chấp hai tay
xa xá (chào hỏi). Lớn lên anh đi ứng cử dân biểu chắc đắc cử đó ! .. Làm
sao không thương và cảm động được, khi dòm dân quê tỉnh mình hả ? bạn. Trưa
thì tôi hay dòm mấy bà bán than ở hàng hiên nhà Ông Đốc Phủ Đẩu ăn trưa.
Họ xuống sông rửa tay sạch sẻ, bày đồ ăn trưa ra ăn. Trước, họ lấy gói rau
sống đem từ nhà theo bày ra một ảng rau,đặt lên mấy lá chuối làm khăn trải,
mở gói bún trắng nỏn mua ngoài chợ xóm đèn ba ngọn, xong bày mấy con mắm
lóc, lấy cái bàn tay còn đen đen màu than, cầm hai ngón tay trỏ và cái vuốt
mấy con mắm cho sạch chất nước và thính còn đọng quanh con mắm… từ từ xé
nhỏ ra thành sợi bằng cọng đủa. Xong , bóc một nắm rau, bỏ mấy cọng bún lên,
vài cọng mắm đã xé… cho vào miệng ... nhai ăn một cách ngon lành, tui dòm
mà cũng bắt thèm ! Khi thì cắn thêm trái ớt, nghe cái cốc .Thấy họ ăn vui
vẻ, khác với bộ mặt suy tư của mấy ông uống cà phê buổi sáng. Đối diện xéo
chổ họ ăn, là cái đít ( đằng sau) tiệm Nhơn Hòa. Tôi hay lén lén ‘’lòn’’
vào nhà bếp của họ để coi. Họ thấy đuổi ra, thì tôi vào chổ họ chất củi phía
hiên sau, mà tiếp tục quan sát dân tình. Đi hướng về bờ sông vài mươi bước,
có một cây sao già. Chổ nầy là bến xe bò, xe bò chở cám, hay gạo, ở tiệm
Quảng Thành xương. Tiệm này mở cửa ngang hông để khách chở bao cám hay gạo.
Đôi khi mấy xe bò này chở cát từ suối Giữa về hay vật dụng nặng xây cất.
Qua mấy chục thước thì tới bến xe ngựa tại ngả ba Bạch Đằng - Phan thanh
Giản. Mùi cức bò với nước đái, của hai bến bò và ngựa có hai mùi khác nhau,
bên nồng gắt, bên nhẹ hơn ti tí; lúc nhỏ đó tui ghi nhận “gỏ gàng” như vậy
.
Đi hết cái dãy nhà lụp xụp này về hướng ngược lại. thì tới vách tường cái
nhà vách cao. Đối diện với cổng nhà ông Xã Tề. Tôi lòn vào phía sau , vô
nhà này là lò nướng bánh mì. Lúc chưa nướng thì nghe cái mùi chua chua của
bột mì ủ. Lúc nướng bánh mì, thì thơm lừng mùi bánh mì mới nướng, tiếng rao
bánh mì thời đó là : Ai ăn bánh mì nóng dòn hôn? Nghe tiếng bán bánh mì
rao vang lên cả một thời xưa thân thương đó. Theo tôi biết, chợ Thủ mình
lúc đó, có hai lò bánh mì, một ở đây, một ở phía hông nhà ông xã Tề với,
nhà xưa của Hội Đồng Cần.
Từ lò bánh mì này, nối với phía sau tiệm Minh Hồ, ngang qua tiệm tôi đi
lần ra phía trước chợ. Vì tôi có chơi với anh Xập Dì. Nên quen với anh chủ
Mập này ( thứ tư hay sáu gì đó, tui quên) mặt anh nhân hậu hay cười xề xòa,
đẹp trai và dể thương nhất trong đám con ông Đại đồng, tiệm chụp hình của
BD mình.
Bánh dừa xưa kia, ăn sao nay vẫn thấy mùi dừa thương nhớ.
Dưới đèn ba ngọn này, người ta thì ca bản nhạc thương hoài ngàn năm, tui
thì nhớ cái bánh dừa “thương”ngàn năm. Có một ông Tàu, làm bánh dừa. Ông
đổ bánh trong một khuôn tròn lớn (khoảng sáu hay tám tất) hình như bằng gan
thì phải. Mặt khuôn trên ụp phần khung đổ bánh phía dưới, sau khi đổ một
lớp bột phía dưới xong. Ông đổ một lớp dừa ngào đường cát vàng cho phủ líp
phần bột, cho thêm một lớp bột phủ kín lớp dừa lại, đậy nắp và nướng . Xong,
mở nắp phần trên ra, cắt ra làm sáu hay tám phần rất đều và khéo. Mỗi miếng
cắt ra hình tam giác . Vì bột pha với đường vàng, nên bánh cắn vào miêng
nghe được vị hơi ngọt mà xơm xớp của bột mì, vị ngọt của dừa ngào đường cát
vàng, cả hai “ nghe” vị ngọt, sốp mà beo béo, cả hai trộn lẫn vào nhau,…sướng
và nghe đã tới vài chục năm sau, ...vẫn còn nhớ đến bây giờ đó bạn ơi ..!.
Thằng nhỏ phải xấp hàng chờ, vừa đợi vừa coi nên … ăn đã lắm. Lúc bánh mới
ra lò , vì còn nóng phải vừa ăn vừa thổi, ngon sao là ngon. Ông làm bánh,
bán cho mấy người đứng đợi xung quanh đó, rồi đi giao bánh cho bạn hàng gần
đó ăn. Về sau tôi không thấy ông bán nữa, và bánh dừa này sao tuyệt tích
giang hồ luôn, tiếc sao là tiếc.
Quanh đó có hàng bán xôi, bắp ngon cũng khá ngon. Tôi ghi nhận là cái …’’vị’’
nhẹ nhàng của làng quê. Không như gian hàng xôi và bánh ngọt có vẽ “sang
và khéo hơn” của Bà Giáo Thọ, phía bên kia hông(giữa) chợ, Bà bán xôi đủ
loại: xôi lá dứa, lá cẩm, bên dưới lót một miếng bánh phồng, trên mặt chan
một ít nước cốt dừa, đậu xanh cà, vài sợi dừa nạo phất phơ, rắt đường cát
vàng và cho thêm một ít mè. Ăn một gói , “nghe cái cái kheo khéo” của Bà
Giáo,. Ngoài xôi ra, bà Giáo còn bán các thứ bánh: bánh bèo ngọt, bánh
qui, xôi vị, bánh dừa( bánh bột nếp, nhưng đậu xanh lại ăn với muối mè đường).
Nhớ tới đây tôi nhớ lại đứa em sáu tuổi của tôi, sáng hỏi em muốn ăn gì,
nó trả lời bắp nặng bặp, hoặc xôi bà giáo hay xôi ở cột đèn ba ngọn.
Khác với cái “mộc mạc” của dì Tư, thím Tám.. bên nây chợ, xóm bình dân dưới
đèn ba ngọn, tôi hay lân la lại mấy bà bán bánh qui, bánh qui mềm mềm deo
dẽo, trên núm có một chấm đỏ. Nhưn đậu xanh, nhưn dừa nạo thơm ‘’mùi dừa’’,
cắn nhẹ ăn nghe mềm trơn dẽo dể nuốt. Sao tôi vẫn thích mấy món này, nghe
có mùi xóm làng quê Mỹ Hảo Bến Thế của tui. Rồi bánh thuẩn một loại giống
như bánh bông lan, hình như làm bằng hột vịt, có cái vị riêng của nó; bánh
cúng bánh cấp, xội vị, cơm rượu ... Mỗi lần có giổ quảy, Bà Nội tôi hay ra
đây mua bánh cấp bánh cúng . Ăn “đám giổ” đồ mặn xong, tôi vẫn khoái nếm
những bánh ngoài chợ nầy.
Rồi đi dạo tiếp, coi bán mắm của mấy bạn hàng bán nhỏ nơi đây, trên đường
Thái Lập Thành nầy, thay vì lại mấy vựa mắm trên nhà sàn phía bờ sông, Tôi
khoái món cá lốc mắm “xổi” nơi đây lắm. Tôi lại lân la coi họ bán măng chua,
với lại cây môn, cây móp làm chua , gọi là dưa móp ...v... v.
Trời về xế trưa, bạn hàng dọn bớt, mấy con bồ câu của nhà bà Năm Trong bay
từng đàn lại kiếm ăn, trông vui mắt lắm.
Khoảng ba bốn giờ là chợ tan hết, khung cảnh sau đó, nói phần sau vậy.
18-06-2015.
2- Mấy món nhà quê này, bà con có thấy gì không đúng, xin góp ý, tui sửa
lại cho đúng hơn nhen.
1 - Bài hát Sáng Rừng (Phạm Đình Chương) - Nghe nhạc của Tui
http://www.nhaccuatui.com/.../sang-rung-pham-dinh-chuong...
Mời các nghe bản nhạc nầy cùng lúc đang đọc bài này, cho giống, loa phóng
thanh của chợ Thủ mình thời xưa 1955- 56.
Bình Dương rửa chợ xúc hồ
Lâm Quang Khải
Nước kia đã rửa bụi này còn vương
‘ta về cuối mái đầu sương điểm
nghe nặng từ tâm lượng đất trời
cảm ơn hoa đã vì ta nở
thế giới vui từ một lẽ loi…’ .(1)
Bình dương chợ Thủ ơi
ngày xưa ta đi cùng khắp nẽo
Ngó ngó người qua cảnh với trời.
nay ta vơi lại niềm thương nhớ
ghi lại vài dòng
trong gió mây.
Lời tựa (Tâm Vô August 21. 2016. )
Cuộc đời không khác chi một dòng sông, đã trôi đi thì không bao giờ trở lại.
Và ký ức, giống như những hạt phù sa lắng đọng lại hai bên bờ khi dòng nước
trôi qua. Tất cả đều sẽ ra đi, nhưng kỷ niệm vẫn mãi mãi ở lại, vẫn mãi
mãi trường tồn.
Những ký ức của thời xưa cũ bao giờ cũng tuyệt đẹp và chất chứa. Với người
ly hương, ngoài những chất chứa, lại còn có những ray rứt, hoài vọng về cố
hương, nơi mình đã chôn nhau cắt rốn.
"Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa"
Xin cám ơn tác giả đã dìu dắt độc giả trở về những kỹ niệm tuyệt vời của
thời xưa cũ, tái hiện lại những hình ảnh hết sức sống động của Chợ Thủ ngày
xưa. Những hình ảnh của chợ mấy chục năm xưa bỗng như sống lại dưới hồi ức
của tác giả, nó như một cuốn phim quay ngược đầy sống động, đưa độc giả trở
lại thời hoàng kim của quê hương, một giai đoạn mà chắc còn lâu lắm, người
Việt mình mới được trở lại…
***
Mỗi lần thấy nhân viên thành phố tui đang ở bên Tây này rửa đường, lề đường,
sạch trơn, làm tôi nhớ về những kỹ niệm ngày xưa , ngày còn rất nhỏ. Bậc
đại nhân bàn về thiên hạ đại sự, tôi kẻ tiểu nhân (con nít thời 1954), nên
viết về chuyện dưới cái nhìn con nít của ngày xưa . … nhớ tuồng như là hôm
qua đó, mà nay đã bạc đầu như sương trắng ; tôi nghĩ là ít có người nhớ
chuyện ‘bá láp’ đó đâu . Với tôi hể cái gì thuộc về nơi đất ''Thủ'' đó,
‘’thủ’’ giử lại mình, rác bụi cũng thần tiên; Thôi mình nhớ “ừng sau”, thì
viết “ ừng vậy” ,đi.
Rửa chợ súc hồ là gì ?, con nít tôi xin kể .
Chẳng là, lâu lâu một lần chánh quyền thị xã chợ Thủ dầu một, hay làm công
việc rửa trong lồng chợ Thủ mình của mình cho … nó sạch sẽ. Đúng là văn
hóa Tây phương, hả?. Thời Tây chưa về xứ, ngoài cái hốt rác thì khỏi nói,
hốt xong họ còn cho quét chợ , quét đường nữa …đúng là sạch boong (mấy người
làm công tác này là những người tù sắp mãn hạn). Tôi còn nhớ được “mùi” bụi
đường bay lên khi họ quét, mùi nồng và nhẹ nóng gắt của bụi đường bay vào
mũi…, tôi để vậy cho bụi bay vào, để nghe được mùi đất trời .
Bụi khách trần không mời nhưng lại đến !
Bụi trần kia, vẫn bám mãi đến hôm nay
Tâm ‘’không’’ thì bụi bám vào chợ Thủ,
Tâm vơi đầy nên bụi mãi còn đây.
Nắng nóng thơm da tay mùi khen khét ….
Nóng ngoài đường và hơi nóng, ấm tận tim gan … (2)
Tâm vơi đầy
hỏi ,
sao bụi còn “đâu” còn mãi, vậy?
Tôi thường ra chợ , lòng vòng quanh quẩn; Vô lòng chợ dưới, xẹt ra đầu chợ
trên; Vô ngả Thái Lập Thành rồi ra đầu , hay ngang hông chợ (Đoàntrần Nghiệp)
…. Đi tùm lum, chỉ theo ngẩu hứng . Không phải chỉ để ăn, mà còn để ngắm
nhìn bà con ngoài chợ, bà thâu tiền chổ với búi tóc như củ tỏi, nước da
ngâm đen, dưới càm bà có một nốt ruồi bự bằng đầu ngón tay út với mấy cọng
râu lăn quăn, thân mập phì quá khổ, lúc nào cũng quen thuộc với chiếc áo
bà ba trắng quần vải đen, từ xa, vừa nhìn thấy bả đi tới là mấy chủ sạp phải
lo tiền sẵn để nạp ''tiền chỗ'', bà hai xẻ miếng thịt heo ra sao, Chú hai
Tỏn đóng đôi guốc như thế nào, mấy bà mẹ già nhà quê cười đưa cái miệng móm
xọm … thấy mà thương.
Nhìn anh Ba, chú Năm đánh xe ngựa sau một chuyến đưa khách đi Miểu Tử trận
hay Mỹ Hảo về, từ bến xe ngựa ở ngả ba Bạch Đằng – Phan Thanh Giản, họ xề
lại quán trà huế, đối diện xéo của chợ cá, mua một tô trà huế, xậm màu trà,
cầm hai tay (vì tô hơi bự) vừa thổi vừa húp một cách ngon lành… Trước mặt
bàn của quán trà, có cây thanh ngang, treo vài ba nãi chuối già, chuối
sứ hoặc chuối simon , trên mặt bàn thì để hủ kẹo đậu phộng, vài phong
bánh in, năm ba trái cóc, ổi, tô muối ớt đỏ au. Mấy ông bợm nhậu mua một
xị đế, với cái ly nhỏ xíu, ''chúm'' miệng uống vào rồi khà ra một cái,
mồi nhắm là một miếng cóc , hay ổi . Thậm chí , không có gì, thì một trái
ớt, chấm muối, cũng là mồi rồi ! Lâu lâu mấy chả còn ợ lên thiệt lớn, lè
nhè năm ba câu mà lúc nào cũng kèm theo những tiếng chửi thề quen miệng ,
mồi nhậu của mấy người xích lô, ba bánh, là như vậy. ... tiếng , rồi ...''dô..
dô'' đi anh, vui nhộn.. Bà chủ quán thì dáng ốm người cao lỏng khỏng, tay
chân lanh lẹ, lúc nào cũng cầm cái quạt lá, hay quạt mo,quạt xành xạch cái
lò củi để giữ lửa cho nồi trà bên trên , vì vậy người ta còn gọi là, dì ba...quạt
trà huế, còn ông chồng thì mặt vuông , con người thâm thấp, chậm chạp hơn.
Mỗi lần dở cái nắp nồi, hơi nước xông lên nghi ngút, tỏa hương thơm lừng,
làm tui nhớ đến bình trà huế ủ trấu của bà Cố tui.
Phía trái quán nước, có mấy gánh nẻ, lúc nào cũng đông khách , mấy bà ngồi
trên chiếc ghế nhỏ xíu, gần bệt dưới đất, khoe những cặp đùi, người trắng
phếu, kẻ đen thui thủi , áo thì kéo sát lên tới vai và cổ, lòi ra cái lưng
trần, dính đầy những ống nẻ. Mấy hàng ống trúc, lớn bằng ngón tay giữa. Hai
hàng sáu ống, ba hàng chín ống nẻ , coi giống như là cái lưng con nhím.
Gần đó, mấy cái cà ràng than hồng đỏ rực, của gánh bán bánh tráng phồng nướng
. Cái bánh tráng được kẹp giữ hai cái kẹp chỉa que bằng tre . Miếng bánh
tráng được lật qua lật lại lẹ làng, phồng lên từ từ, chín xong, thì màu vàng
hột gà, thơm phức coi mà phát thèm, nướng xong, dì Út bánh phồng mới lấy
cái nan tre mõng dính như con dao lam , rạch cái bánh nghe một cái rẹt ,
dì mới tách nó ra làm hai thiệt là ngay ngắn, xong dì bắt đầu nhúng tay
vô thau nước, rồi bỏ qua cái chậu đường mạch nha màu nâu đậm , ngắt một nhúm
nhỏ kéo lên thiệt lẹ thành một sợi mõng, có bề ngang cỡ hai phân , dì để
lên đầu này cái bánh , kéo tuốt qua đầu kia, ịn xuống cho dính, trét đâu
cỡ ba bồn lằn thì xong, dì Út bốc một chúm dừa rám nạo sẵn rắc lên, xong
rồi dì bẻ hai cái bánh lại thành một góc tư, một tay đưa bánh, một tay lấy
5 cắc, bỏ vô túi áo rồi tiếp tục trét dừơng lên mấy miếng bánh khác, tay
làm thoăn thoắt, miệng không ngừng hỏi hết người này đến người kia muốn mua
bao nhiêu...tui cầm miếng bánh phồng tráng kẹo, bỏ vô miệng cắn một cái rốp
nghe dòn rụm thiệt đã vì cái ngọt của đường, cái béo của dừa và mùi thơm
bánh nướng.
Gần cái phông tên nước, ngay góc đường là xe mì của chú Cấm, mùi mì hủ tíu
bay ra nghe thơm phức .Kia kìa mấy người gánh nước, tiếng thùng thiếc va
chạm, tiếng rao hàng, tiếng cười nói ồn ào pha trộn tiếng Tàu, tiếng Việt
lẫn nhau nghe vui quá trời luôn.
Cái tánh sao cũng là lạ, tui hay nhìn mấy người nghèo qua lại cỏi ta bà,
lòng nghe hạnh phúc, nên thấy gì gì cũng là cỏi tịnh độ thân thương? Nghe
được tiếng chợ ồn ào, kinh sách đâu đó ghi, nếu ‘’ngộ tánh’’ cao, tất thảy
đều là Diệu Âm của chư Phật, thấy … nghe có lý à nhen. Đi xa thì nhớ ở gần
thấy thương !
Xóm góc chợ ''đầu dưới'' này, góc Bạch Đằng và chợ Cá; tôi hay nhìn ông bán
bánh mì. Ông ốm yếu, mặc cái quần xà lỏn củ xì bạc màu tro, đưa hai chân
khẳng khiu, mông mốc, hai bàn tay cũng chẳng khá gì hơn. Trên bàn ông để
một dĩa cá mòi hộp, với nước sauce, một dĩa xíu mại…v.v.. lèo tèo dĩa hành
ngò và dưa chuột. Khách của ông, ông đi qua , trẻ em đi lại, vô mua một khúc
“ bánh mì chan”, năm ba cắc hay một đồng gì đó, mà ăn ngon lành. Coi vừa
buồn cười, vừa thấy thương mà ứa nước mắt khóc người “ chợ tui’’. Bạn có
biết ‘’bánh mì chan’’ là gì không, vì hổng có tiền nhiều, thay gì mua một
khúc bánh mì không , cái này lại được chan một chút nước sauce, rắt muối
''nhiều nhiều dùm nhen'', vậy thôi…, xong, ăn coi ngon lành . Tui và bà chị
hàng xóm hay nhìn ‘coi’ và tủm tỉm cười.
Vòng chợ như vậy, để nghe những mùi ‘’thân thương” làm sao ấy.
Và niềm vui hôm nào ''chợt đến'', là ngày trưa hôm nay khoảng hai ba giờ…
sở trường tiền (ty công chánh) kéo máy bơm ra rửa chợ. Cái máy “bơm"đó
là một cái “rờ mọt” có hai bánh xe , máy thì lớn như đầu máy xe hơi mười
bánh. Máy bơm đươc đặt ở cuối dốc bến đò qua sông, sát chợ cá. Đường kính
của ống dẫn nước bằng bắp vế người lớn, được kéo từ đầu máy bơm nước vô
tận trong lòng chợ. Xong xã đâu đó máy bơm nước bắt đầu chạy. Tụi con nít
mừng rơn, chạy nhảy và nhất là đi trên những ống dẫn nước đó, bây giờ đã
căng cứng, đi trên đó, hai tay thì xòe ngang ra để lấy thăng bằng. Rớt xuống,
thì lại leo lên đi tiếp, như người hát xiệc đi dây. Xong chạy vào chợ coi
người ta rửa chợ, Mấy ống xịt nước với áp xuất cao, xịt vào các đường đi,
cát đất bợn cáu gì văng đi mất, đường đi, sạp bán trở nên sạch sẽ. Mấy cái
thớt thịt được xây bằng loại xi măng như là cẩm thạch cũng được bắn rửa
thiệt sạch coi mát mẽ như ta vừa mới tắm. Bọn con nít rình rình qua lại,
để có dịp rửa chân, tay, đôi khi nước bắn vào cả thân mình, sao mà nghe mát
rượi.
Phần ngoài chợ thì ống dẫn nước trên con đường Thái Lập Thành, chạy lên tới
bùng binh ,để cho thêm nước hoặc súc hồ sen. Hồ nước được tát cạn, xịt rữa
xung quanh thành hồ, và cho nước mới vào.
Xong rồi đâu đó, máy bơm tắt, mây ống nước đang căng cứng, từ từ xẹp xuống,
như là người ta kéo màn vãng tuồng hát… niềm tiếc nuối của mấy đứa nhỏ lại
xông lên!
Các bạn, bà con Bình Dương yêu quí của tui ơi,
Chuyện chỉ có như vậy mà làm tui mãi nhớ khôn nguôi. Bởi, vì kỷ niệm đó nhiều
dịp được‘’gợi nhớ’’ bên trời Tây nầy, họ hay rửa đường, rửa hành lang cho
người đi bộ, một xe nhỏ bề ngang gần bằng lề đường, kéo thêm một “xi tẹt’’
nước để chầm chậm mà rửa đường sạch boong. Căn bản của vấn đề, là văn hóa
của sự tu bổ và sạch sẽ, mà người mình chẳng có ? … Mỗi lần như vậy là dịp
nhớ về .
Nhưng các bạn ơi,
Họ chẳng rửa đi được những’’bụi khách trần’’ của chợ Thủ, Bình dương …bụi
bám chặt tim tôi, những hạt bụi mà kinh sách xưa nói, ''người khách không
được mời'' đó.
Tôi phải đi…’’ khiếu nại” mới đươc, rửa mà chẳng sạch được bụi khách trần
ở tâm tôi ...
Người không hay một thoáng vô vi …
mà,
Ngắm con sông bạc một màu chung thủy,(TS)
Những phút nhớ về. 18.08.2015
1 - thơ Tô thùy Yên Và Thầy Tuệ Sỹ
2 - ghi nhận: tui tuyệt chẳng biết làm thơ, nên xuất khẩu thành văn … xin
ghi như vậy.