GÓC VĂN HỌC
Vĩnh Xuyên theo tạp chí Văn học
Từ lúc thiếu thời, tôi từng say mê hai câu đối có một không hai của
Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường :
Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746 trong một gia đình có truyền thống văn
học, khoa bảng. Vốn là người thông minh, trí tuệ, văn võ song toàn. Năm 30
ông đậu Tiến Sĩ cùng một khoa với Phan Huy Ích cũng là em rễ của ông. Cha
ông là Ngô Thì Sỹ cũng là bậc Nho gia. Cả hai cha con đều làm quan đồng triều
dưới thơi Lê- Trịnh.
Đặng Trần Thường sinh năm 1759, người trấn Sơn Nam, đỗ Sinh Đồ về
cuối đời Lê, mặc dù không chuyên cần đèn sách là mấy song vốn có tư chất
thông minh nên cũng có tài văn chương thi phú và sự đối đáp tại sân Văn Miếu
thời ấy giữa Đặng Trần Thường và Ngô Thì Nhậm đã vang danh khắp cõi.
Trở lai sự việc, khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, lập lại
kỷ cương cùng với Chiếu chiêu hiền của Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm viết thư
mời các nhân sĩ Bắc Hà ra hợp tác. Đặng Trần Thường không nghe. Ngô Thì Nhậm
nói: “Người quân tử quý ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên nghiệp lớn,
chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì?”. Đặng Trân Thương căm
giận và ghi câu nói ấy trong lòng. Năm 1793 chúa Nguyễn sai người ra Thăng
Long chiêu dụ hào kiệt, chống lại nhà Tây Sơn. Đặng Trần Thường vượt biển
vào Nam theo vê với Nguyễn Ánh. Khi vua Gia Long lên ngôi, Đặng Trần Thường
được giao cho coi Tào binh dưới quyền Tổng trấn Bắc thành – Nguyễn văn Thành.
Lúc bấy giờ các nhân sĩ Bắc hà đã theo về với Quang Trung bị đem ra
kể tội trước Văn Miếu và một sự trùng phùng giũa kẻ đang thắng thế với người
thất thế đã diễn ra. Đặng Trần Thường gặp lại Ngô Thì Nhậm, nhớ câu nói ngày
xưa, Đặng Trần Thường tỏ ra khinh bạc nhìn Ngô Thì Nhậm rồi đắc chí đọc một
câu vế đối, đầy ý mỉa mai.
“Ai công hầu ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?”
Đây là câu dối khó vì có năm từ “ai” được lập lại, đặc biệt có chữ
“trần” ngụ ý chữ Trần trong tên gọi Đặng Trần Thường. Đúng là giọng điệu
của kẻ được thời, đắc chí. Ngày xưa ông nói những gì, bây giờ cho ông sáng
mắt ra, ai công hầu? ai khanh tướng? Làm sao ông biết được tôi có ngày này?
Thật bất ngờ, không một chút e dè, tức thì Ngô Thì Nhậm đọc luôn vế
đối thứ hai:
“Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”.
Thời Chiến Quốc ở Trung hoa chia làm mười nước đánh nhau gây nạn binh
đao triền miên khốc liệt cho dân chúng, Thời Xuân Thu cũng vậy, cũng chỉ
vì nuôi mộng đồ vương mà chia cắt nước ra thanh nhiều nước nhỏ để tranh dành
quyết liệt. Người thắng thế được làm vương làm tướng, người thất thế sa cơ
phải chịu mất thanh danh, đó là chuyện thường tình trong thiên hạ, “gặp thời
thế, thế thời phải thế”, chẳng có chi làm bận lòng ta. Đúng là khẩu khí của
bậc trượng phu. Một vế đối hoàn chỉnh đến độ không thể nào hoàn chỉnh hơn.
Cũng đáp lại bằng năm từ “thế” và lấy chữ “Thời” trong câu ví như chữ “thời”
trong tên gọi Ngô Thì Nhậm để đáp lại (người ta thường gọi Ngô Thời Nhiệm
để tránh kỵ húy).
Thế mới biết, Ngô Thì Nhậm dù đã lâm vao đường cùng vẫn không làm
mất đi khí tiết của minh, quả xứng đáng là người anh hung văn võ song toàn.
Căm giận vì không làm nhục được Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường đã
cho người tẩm thuốc độc vào ngọn roi đánh Ngô Thì Nhậm nên ông đã qua đời.
Trước khi sắp lìa đời, biết mình khó lòng qua khỏi, Ngô Thì Nhậm đã gởi cho
Đặng Trần Thường một bức thư vỏn vẹn có mấy câu, đại ý bài thơ:
Thương thay cho Đặng Trần Thường/ khác nào chim yến đang làm tổ trong
cái nhà sắp cháy/rồi sẽ giống như Hàn Tín ngày xưa từng giúp Hán Cao Tổ rốt
cuộc rồi cũng bị Hán Cao Tổ giết ở cung Vị Ương/kết cuộc của ông rồi cũng
như vậy thôi.
Vê sau Đặng Trần Thường cũng bị vua Gia Long giết bằng cách Xử giảo
(thắt cổ).
Ngô Thì Nhâm mất đi để lại một gia sản gồm hơn 600 bài thơ, phú có
gia trị góp thêm vào kho tàng văn học Việt Nam.