Bình Dương chợ Thủ xưa và … Đèn ba ngọn
Lâm Quang Khải

Xưa thì cảnh như trong hình này, cái cột như cột chơi bóng rổ đó. Sau đó thì người ta xây một “cột đèn đường” chính giữa một cái nền cao cao và tròn bằng xi măng, đường kính khoảng năm sáu thước, mà dân Thủ mình gọi là đèn ba ngọn, vì một cột đèn mà phần trên có ba ngọn đèn.

Xin mời các bạn cùng tôi dạo bước vào tấm hình ngày xưa đó.



Xưa, ta nghe:

Đèn Sai gòn ngọn xanh ngọn đỏ, đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu.
Em về em học chữ nhu. Bốn phương anh vẫn đợi, ngàn năm anh vẫn chờ.

Nay, nghe lại như vầy.

Những thành phố em sẽ đi qua. Ðây Ba-Lê, đây Luân Ðôn, đây Vienne
và …mỗi nơi đâu dân Việt mình, khi tản mạn bốn phương , dừng chân lại ….
Đèn thế giới ngọn xanh ngọn đỏ.
đèn ba ngọn, ngọn tỏ ngọn lu,
dẫu đi anh học chữ Tây,
chữ Anh chữ Nhật cũng là … chữ nhu.

Người theo “Cảnh”… , chậu méo, chậu tròn … “thân” đành theo vậy, méo tròn cũng ‘’chịu thôi’’. Cảnh, xứ, trần dù thay thay đổi đổi, “tâm’’ dân Bình, xứ Thủ vẫn còn như xưa ...

Bà con viễn xứ đâu đâu.
Bốn phương chợ Thủ vẫn chờ, ngàn năm Bình Dưỡng vẫn đợi người về … bến xưa.
Có đâu đẹp bằng…

Ngọn đèn ba ngọn ngày xưa ấy, soi cho ta… Ta đã thấy những gì trong tâm khảm . Và ta đã thấу những gì trong đêm xưa, ngày cũ đó?
Gió lòng sông gió sao mà nhẹ thổi, làm ánh đèn Ba ngọn ngày xưa…
Thổi đi tám hướng ngàn phương
Ngàn phương tám hướng…
nay,
nương về chốn xưa.

Về chốn xưa, tôi dựng lại cảnh, người; bà con : nay, dòm lại… cảnh cũ người xưa, nhen.

Thường thì đúng chín giờ đêm, qua cái loa phóng thanh ở đèn ba ngọn, ta nghe như vầy : “Đây là đài phát thanh Sài Gòn, xin thông báo với thính giả, bây giờ là 21 giờ, xin bà con vui lòng vặn âm thanh vừa đủ nghe, để không làm phiền hàng xóm đang cần im lặng để nghỉ ngơi”. Sau đó vài phút, thì loa phóng thanh, đầu chợ dưới, chợ trên đều tắt. Và bà con trong xóm trong làng, thường thì “làm theo ra đi- ô” dặn, là tắt âm thanh, để cho bà con nghỉ ngơi. Bà con xóm làng và chính quyền xưa, họ còn tôn trọng lẫn nhau lắm.

Sáng thì khoảng sáu bảy giờ, (xin bà con mở bản nhạc này … để nghe âm thanh của ngày xưa khoảng một ngàn chin trăm năm mươi mấy (1955 – 1960…)
Đèn ba ngọn sang sáng nghe loa hát như vầy:

…Rừng xanh gieo bao sức sống, ú u ú u
Ngàn cây xôn xao đón hương nồng
của vầng thái dương hồng
bừng lên trời Đông.
Cỏ cây vươn vai lên tiếng, ú u ú u
Cùng bao nhiêu chim chóc tưng bừng
dậy sau giấc đêm dài
triền miên triền miên…

Đèn ba ngọn ban ngày cho nhạc vui tươi để chào đón một ngày mới. (1) Và chợ Thủ Bình Dương ta, bắt đầu một ngày mới trong tiếng nhạc vui tươi đó.
Cảnh nhộn nhịp của bạn hàng nhóm chợ, ra sao ? khoan nói vội …Ta đi coi người nhàn nhã uống cà phê nhen… mùi cà phê bí-tất, bánh bao, xíu mại dà cháu quẩy, buổi sáng ở tiệm Nhơn Hòa, ( khoảng giữa chợ, đường Thái Lập Thành) ‘chữa’ uống mà đã nghe đã thơm lừng trong bụng ; Thấy dân “khủ” (Thủ, BD) mình uống cà ‘phe’, sao mà nghe thương làm sao mà thương! Thường thì… vì ít tiền, họ kêu một cái ly cà phê đen nhỏ. Ly cà phê bóc khói nhè nhẹ được đưa ra; tay chẩm rãi đổ ly, nước cà phê vào dĩa, ly thì tạm để trên bàn, cầm cái dĩa … cẩn thận uống từng hớp một, để nghe mùi cà phê, để không nóng quá mà cà phê đủ ấm bụng. Tôi hay nhìn họ, vừa uống vừa “suy tư”, khuôn mặt đâm chiêu, nghĩ hoàn cảnh gia đình bẩn chật, hoàn cảnh khó khăn hay vận nước chinh chiến điêu tàn ?... Tôi tự hỏi ở lòng mình như vậy, dù lúc đó tôi còn nhỏ lắm. Mấy đưa em tôi hay chọc tui ba cái vụ nầy. Nói ảnh uống cà phê thì phải chan vô dĩa mới húp, ngồi thì phải gát một chân thì lên ghế! , thấy ông xe ngựa, ông đạp xe ba bánh, gặp mấy ông bà già ... thì chấp hai tay xa xá (chào hỏi). Lớn lên anh đi ứng cử dân biểu chắc đắc cử đó ! .. Làm sao không thương và cảm động được, khi dòm dân quê tỉnh mình hả bạn. Trưa thì tôi hay dòm mấy bà bán than ở hàng hiên nhà Ông Đốc Phủ Đẩu ăn trưa. Họ xuống sông rửa tay sạch sẻ, bày đồ ăn trưa ra ăn. Trước, họ lấy gói rau sống đem từ nhà theo bày ra một ảng rau, đặt lên mấy lá chuối làm khăn trải, mở gói bún trắng nỏn mua ngoài chợ xóm đèn ba ngọn, xong bày mấy con mắm lóc, lấy cái bàn tay còn đen đen màu than, cầm hai ngón tay trỏ và cái vuốt mấy con mắm cho sạch chất nước và thính còn đọng quanh con mắm… từ từ xé nhỏ ra thành sợi bằng cọng đũa. Xong , bóc một nắm rau, bỏ mấy cọng bún lên, vài cọng mắm đã xé… cho vào miệng ... nhai ăn một cách ngon lành. Tui dòm mà cũng bắt thèm ! Khi thì cắn thêm trái ớt, nghe cái cốc. Thấy họ ăn vui vẻ, khác với bộ mặt suy tư của mấy ông uống cà phê buổi sáng. Đối diện xéo chỗ họ ăn, là cái đít ( đằng sau) tiệm Nhơn Hòa. Tôi hay lén lén ‘’lòn’’ vào nhà bếp của họ để coi. Họ thấy, đuổi ra, thì tôi vào chỗ họ chất cũi phía hiên sau, mà tiếp tục quan sát dân tình. Đi hướng về bờ sông vài mươi bước, có một cây sao già. Chỗ nầy là bến xe bò, xe bò chở cám, hay gạo, ở tiệm Quảng Thành Xương. Tiệm này mở cửa ngang hông để khách chở bao cám hay gạo. Đôi khi mấy xe bò này chở cát từ suối Giữa về hay vật dụng nặng xây cất. Qua mấy chục thước thì tới bến xe ngựa tại ngả ba Bạch Đằng - Phan thanh Giản. Mùi cức bò với nước đái, của hai bến bò và ngựa có hai mùi khác nhau, bên nồng gắt, bên nhẹ hơn ti tí; lúc nhỏ đó tui ghi nhận “gỏ gàng” như vậy .

Đi hết cái dãy nhà lụp xụp này về hướng ngược lại thì tới vách tường cái nhà vách cao. Đối diện với cổng nhà ông Xã Tề. Tôi lòn vào phía sau, vô nhà này là lò nướng bánh mì. Lúc chưa nướng thì nghe cái mùi chua chua của bột mì ủ. Lúc nướng bánh mì, thì thơm lừng mùi bánh mì mới nướng. Tiếng rao bánh mì thời đó là : “Ai ăn bánh mì nóng dòn hôn?”.  Nghe tiếng bán bánh mì rao vang lên cả một thời xưa thân thương đó. Theo tôi biết, chợ Thủ mình lúc đó, có hai lò bánh mì, một ở đây, một ở phía hông nhà ông xã Tề với, nhà xưa của Hội Đồng Cần.

Từ lò bánh mì này, nối với phía sau tiệm Minh Hồ, ngang qua tiệm tôi đi lần ra phía trước chợ. Vì tôi có chơi với anh Xập Dì. Nên quen với anh chủ Mập này ( thứ tư hay sáu gì đó, tui quên). Mặt anh nhân hậu, hay cười xề xòa, đẹp trai và dễ thương nhất trong đám con ông Đại Đồng, tiệm chụp hình của BD mình.

Bánh dừa xưa kia, ăn sao nay vẫn thấy mùi dừa thương nhớ.

Dưới đèn ba ngọn này, người ta thì ca bản nhạc thương hoài ngàn năm, tui thì nhớ cái bánh dừa “thương” ngàn năm. Có một ông Tàu, làm bánh dừa. Ông đổ bánh trong một khuôn tròn lớn (khoảng sáu hay tám tấc) hình như bằng gang thì phải. Mặt khuôn trên ụp phần khung đổ bánh phía dưới, sau khi đổ một lớp bột phía dưới xong. Ông đổ một lớp dừa ngào đường cát vàng cho phủ líp phần bột, cho thêm một lớp bột phủ kín lớp dừa lại, đậy nắp và nướng . Xong, mở nắp phần trên ra, cắt ra làm sáu hay tám phần rất đều và khéo. Mỗi miếng cắt ra hình tam giác . Vì bột pha với đường vàng, nên bánh cắn vào miêng nghe được vị hơi ngọt mà xơm xớp của bột mì, vị ngọt của dừa ngào đường cát vàng, cả hai “ nghe” vị ngọt, xốp mà beo béo, cả hai trộn lẫn vào nhau,… sướng và nghe đã tới vài chục năm sau, ...vẫn còn nhớ đến bây giờ đó bạn ơi ..!. Thằng nhỏ phải sắp hàng chờ, vừa đợi vừa coi nên … ăn đã lắm. Lúc bánh mới ra lò, vì còn nóng phải vừa ăn vừa thổi, ngon sao là ngon. Ông làm bánh, bán cho mấy người đứng đợi xung quanh đó, rồi đi giao bánh cho bạn hàng gần đó ăn. Về sau tôi không thấy ông bán nữa, và bánh dừa này sao tuyệt tích giang hồ luôn, tiếc sao là tiếc.

Quanh đó có hàng bán xôi, bắp ngon cũng khá ngon. Tôi ghi nhận là cái … “vị’’ nhẹ nhàng của làng quê. Không như gian hàng xôi và bánh ngọt có vẻ “sang và khéo hơn” của Bà Giáo Thọ, phía bên kia hông (giữa) chợ. Bà bán xôi đủ loại: xôi lá dứa, lá cẩm, bên dưới lót một miếng bánh phồng, trên mặt chan một ít nước cốt dừa, đậu xanh cà, vài sợi dừa nạo phất phơ, rắt đường cát vàng và cho thêm một ít mè. Ăn một gói , “nghe cái cái kheo khéo” của Bà Giáo. Ngoài xôi ra, bà Giáo còn bán các thứ bánh: bánh bèo ngọt, bánh qui, xôi vị, bánh dừa ( bánh bột nếp, nhưng đậu xanh lại ăn với muối mè đường).

Nhớ tới đây tôi nhớ lại đứa em sáu tuổi của tôi, sáng hỏi em muốn ăn gì, nó trả lời bắp nặng bặp, hoặc xôi bà giáo hay xôi ở cột đèn ba ngọn.

Khác với cái “mộc mạc” của dì Tư, thím Tám.. bên nây chợ, xóm bình dân dưới đèn ba ngọn, tôi hay lân la lại mấy bà bán bánh qui, bánh qui mềm mềm deo dẽo, trên núm có một chấm đỏ. Nhưn đậu xanh, nhưn dừa nạo thơm ‘’mùi dừa’’, cắn nhẹ ăn nghe mềm trơn dẽo dể nuốt. Sao tôi vẫn thích mấy món này, nghe có mùi xóm làng quê Mỹ Hảo, Bến Thế của tui. Rồi bánh thuẩn một loại giống như bánh bông lan, hình như làm bằng hột vịt, có cái vị riêng của nó; bánh cúng bánh cấp, xôi vị, cơm rượu ... Mỗi lần có giổ quảy, Bà Nội tôi hay ra đây mua bánh cấp bánh cúng . Ăn “đám giổ” đồ mặn xong, tôi vẫn khoái nếm những bánh ngoài chợ nầy.

Rồi đi dạo tiếp, coi bán mắm của mấy bạn hàng bán nhỏ nơi đây, trên đường Thái Lập Thành nầy, thay vì lại mấy vựa mắm trên nhà sàn phía bờ sông, Tôi khoái món cá lốc mắm “xổi” nơi đây lắm. Tôi lại lân la coi họ bán măng chua, với lại cây môn, cây mướp (?) làm chua ...v.v.

Trời về xế trưa, bạn hàng dọn bớt, mấy con bồ câu của nhà bà Năm Trong bay từng đàn lại kiếm ăn, trông vui mắt lắm.

Khoảng ba bốn giờ là chợ tan hết, khung cảnh sau đó, nói phần sau vậy.

18-06-2015.

1 - Bài hát Sáng Rừng (Phạm Đình Chương) - Nghe nhạc của Tui
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/sang-rung-pham-dinh-chuong-va.LZD9eUC-AH.html
Mời các nghe bản nhạc nầy cùng lúc đang đọc bài này, cho giống, loa phóng thanh của chợ Thủ mình thời xưa 1955- 56.

2- Mấy món nhà quê này, bà con có thấy gì không đúng, xin góp ý, tui sửa lại cho đúng hơn nhen.