“Có ai đi chợ Bình Dương hôn?”.

TRẦN BÌNH DƯƠNG


“Có ai đi chợ Bình Dương hôn?”. Lời rủ rê, nhắn nhủ đó mỗi khi có dịp nhớ lại khắp người tôi bỗng nổi đầy gai ốc. Ký ức đằm thắm xưa kia cháy bùng lên ngọn lửa tuổi thơ, làm ấm áp thêm những ô kéo kỷ niệm, mà có lúc tưởng chừng như tôi đã quên lãng mất rồi. Một trong nhiều ô kéo ấy được mở ra, chính là hình ảnh còn sót lại từ lúc tôi lần đầu tiên đi chợ...

Đó là những buổi sáng mai, hai má con tôi đón xe ngựa từ xóm Chánh Trong lên chợ. Đường chỉ hơn một cây số, chiếc xe lọc cọc trên đường lăn chầm chậm như cuộc dạo chơi nhàn tản trong sương sớm của những nhà quý tộc thôn dã lên thành. Ông Bảy đánh xe ngựa vút roi vào chiếc chuông đồng sáng loáng nghe leng keng thật vui tai, chốc chốc lại ghìm cương. Một, hai bà khách bước lên, tiếng chân ngựa lào xào bon trên mặt đường loang lổ. Xe qua cầu Bến Cỏ. Tôi nhận ra bóng mình in trên mặt nước xanh rờn, nước xanh hơn cả bè rau muống nổi lều bều hai bên bờ rạch.


“Qua hãng rượu trắng Bình Tây của cô Bảy rồi đó bà con, sẽ tới chợ đồng hồ”. Tôi ngước lên. Ờ quả thiệt đúng vậy! Cái cột đồng hồ nhô lên cao giữa những mái phố màu đỏ gạch. Nó in sừng sững dưới làn mây xanh nõn, khác nào một bức tranh phác thảo tuyệt đẹp.


Bến xe ngựa ở đường Trưng Vương, trước cổng rạp Trần Trung, chợ Bình Dương đây rồi, cái cột đồng hồ mỗi lúc một gần hơn. Mắt tôi lấp loáng. Tôi reo lên: Chợ Bình Dương đây hả má?


Ấy là phút giây tôi bắt gặp ngôi chợ đầu tiên của tuổi thơ tôi. Năm đó tôi vừa lên bảy tuổi.


Tóc tôi bây giờ đã điểm bạc. Gần bốn mươi năm rồi, mình đâu còn trẻ nữa! Má tôi gần tám mươi - tuổi gần đất xa trời vậy mà cứ hai ba bữa bà lại thầm thì: - Hai má con mình đi chợ Bình Dương nghe?


Ông Bảy đánh xe ngựa đã mất từ mấy năm trước. Không ai còn làm nghề đưa khách bằng xe ngựa. Chở má tôi bằng chiếc Honda, qua hãng rượu trắng, qua cầu Bến Cỏ, tôi cảm thấy buồn buồn. Tất cả giờ đây đã thay đổi, cây cầu, hãng rượu đã biến mất từ lâu trong ký ức mọi người.


“Có ai đi chợ Bình Dương hôn?” - Tôi trả lời nho nhỏ mắt cay cay “Có chứ, có tôi đây”. Có má tôi lầm lũi đi vào chợ, dáng lụm cụm, mắt cúi xuống như tìm một cái gì đó trên đường. Phải rồi, má ơi! Hồi vừa bảy tuổi. Ở chỗ này con đã nhìn thấy cột đồng hồ. Cái đồng hồ cũ kỹ mà cả xứ Nam kỳ này không có đến cái thứ hai. Nó càng cao, vuông, già nua như đồng hồ chợ Bến Thành và chợ L.T. Nó cũng thấp thoáng mô típ châu Âu lãng mạn, ở đất Pháp trầm lặng mà ta thường nhìn thấy qua phim ảnh. Ôi cái chợ của tôi! Công trình của một thằng Tây xâm lược nào đó tên gọi là Bonnemain từ năm 1934 đã để lại biết bao nhiêu điều tốt đẹp an lành.


Má tôi không đủ sức đi đến khu chợ đồng hồ. Bà lang thang vài chỗ, nhìn ngắm, hỏi han, rồi sẽ tìm chỗ nghỉ chân. Má tôi đang lần về với quá khứ. Bà đang đi tìm cái sạp hàng của bốn mươi năm về trước: để uống một tô trà Huế. Chen chúc giữa các sạp hàng nhựa, hàng cao su bây giờ, xưa kia là khu ăn uống. Phải rồi, lần đầu tiên đi chợ, tôi đã được ăn một dĩa bánh ướt tôm khô được bóc từ tay một bà già cũng trạc tuổi má tôi, từ chiếc mâm bằng đồng lọt thỏm trong quang gánh. Cái mùi vị ấy, không bao giờ tôi quên được. Những sợi bánh ướt mỏng mảnh, loang loáng mỡ, mằn mặn trôi qua cổ tôi, mùi tôm khô bùi bùi, thơm thơm bốc lên sống mũi. Bốn mươi năm trời trôi qua, cho mãi đến bây giờ trong suốt cuộc đời tôi luôn tin rằng chẳng có một hiệu bánh cuốn, bánh ướt nào ở Bình Dương hay cả xứ Việt Nam này, có thể ngon hơn cái sạp hàng xưa ấy. Thời gian đã xóa đi tất cả; nó đã xóa đi gần như vĩnh viễn tiếng khà khoái trá của má tôi, cùng tiếng hít hà, tiếng nuốt nước miếng ừng ực, tiếc rẻ của tôi từ dĩa bánh ướt tôm khô đầy kỷ niệm.


Chợ Bình Dương của tôi đó! Còn đâu tiếng bào nước đá đậu đỏ bánh lọt của ông Tàu già nơi góc đường, cùng mớ âm thanh rộn rã, vang động cười nói nơi các quán, các tiệm nước đông vui. Lớn lên, tôi mang bao thứ âm thanh kia đi vào đời bỗng có lúc giật mình khi đọc sách, cảm nhận ra những điều kỳ lạ. Ôi những tiệm nước Tàu ồn ã tạp nhạp, có cà phê, bánh tiêu, bánh bao, xíu mại... Có những người đàn ông húp cà phê bằng đĩa - những hồn ma của quá khứ mà nhà văn Bình Nguyên Lộc lúc còn bé đã nhìn thấy và bị ám ảnh. Xế bên kia là khu hàng quần áo cũng y hệt như bốn mươi năm về trước. Cũng những căn sạp nho nhỏ, hơi tối, những người bán hàng chào mời vui vẻ. Tôi bỗng thẫn thờ vì trước mắt mình đã thay đổi. Ở góc hàng này, hồi ấy má tôi mua cho tôi bộ quần áo đầu tiên để đi học. Bà chủ hàng người miền Bắc, hàm răng đen nhánh, chít khăn bóng mượt. Má tôi đã tần ngần lựa chọn những chiếc áo vải Nam Định màu ngà ngà. Những chiếc áo vải “bươm-lin” trắng toát. Và tôi đã cởi trần truồng ra ướm thử vào người cái quần “kaki” xanh đậm, trước cái nhìn vừa ý của má tôi...


Má tôi có thói quen giống như những người phụ nữ đi chợ khác. Đi chợ trước nhất là ăn quà sau cùng mới ra chợ cá trước khi về. Bà dắt tay tôi lướt qua hàng thịt, hàng rau cải, bỏ lại sau lưng tiếng gọi ơi ới. Hồi ấy, chợ cá còn nằm trên bến sông Bạch Đằng, có mái che hẳn hoi, thành chợ đúc bằng sắt tây. Đó là cái chợ cá sạch nhất Nam kỳ lục tỉnh, mà ông Sơn Nam nhà văn đã từng viết trong sách Nam kỳ cảnh trí ở Sài Gòn. Ông kể chuyện đã phiêu bạt đến đất Bình Dương lúc còn trai trẻ quãng năm 1943, 1944, theo ghe mắm từ Cà Mau tấp bến Bạch Đằng. Chợ cá đón ông với những sạp hàng ngăn nắp, đủ loại, đủ kiểu, nào là cá đồng, cá ruộng, tôm, hàng mắm, hàng dưa, ốc, sò... Thật phong phú. Một cái chợ theo đúng cách ông diễn tả - không hề hôi mùi cá.


Tôi mang cái hương vị sạch trong từ chợ cá của nhà văn Sơn Nam hơn bốn mươi năm về trước, lóng lánh hình ảnh chợ cá trải dài ra đến nhà Đốc phủ sứ, dẫn qua con đường Hàng Dương lộng gió, nơi những chiếc ghe, chiếc phà từ Bình Mỹ, Củ Chi xình xịch qua sông, đến bưu điện, Ty Điền địa, trường Mỹ nghệ Bình Dương. Với tôi một thằng bé lần đầu tiên đi chợ, nó mở đầu từ chiếc xe ngựa ở xóm Chánh Trong, theo âm thanh lọc cọc từ đầu bến Hàng Dương, phi nước kiệu về xa hơn nữa tận Mỹ Hảo, Tương Bình.


Có ai đi chợ tết Bình Dương hôn?


Ấy là những năm sau này, lúc tôi đã lên mười bốn tuổi. Má tôi hồi ấy đã trở thành một kẻ chợ. Bà bán vải vóc, quần áo may sẵn trên lề đường Đoàn Trần Nghiệp đối diện với cột đồng hồ. Bảy năm qua, kể từ lần đi chợ đầu tiên, đối với tôi hoàn toàn không đổi khác, tôi vẫn nhận ra chỗ này là chợ trên, đằng kia là chợ dưới. Ở dưới cột đồng hồ tôi được uống nước mía thay vào ly đậu đỏ bánh lọt.


Chợ Bình Dương trong trí tưởng tôi bây giờ thật chẳng có gì đẹp hơn, vui hơn và không nơi nào có thể sánh kịp. Những ngày vui nhất, đẹp nhất là khoảng rằm tháng chạp trở đi, chợ bùng lên khác nào những ngày lễ hội. Ngồi trong sạp hàng phụ má tôi, tôi trông rõ sắc màu của cuộc sống, đầy ắp bao hình ảnh đến lạ lùng. Mấy chục sạp bán bánh mứt che tạm bằng mái tole, bày bán đủ thứ bánh mứt, thèo lèo cứt chuột, chà là, hột sen, trà, rượu, bánh trái đủ loại... Mấy ông Tàu già ngồi bán hàng phơi cái bụng to, rún lồi ra, hõm vào như trái chanh. Tất cả các mặt hàng khác như rau cải, hoa kiểng, quần áo, vải vóc, đồ đạc linh tinh cứ như những dòng thác cứ ầm ào tuôn chảy vào chợ cùng với bao làn sóng người nối nhau đi đứng, nói cười.


Hình ảnh ông đồ già qua bài thơ của Vũ Đình Liên mà tôi đã học ở ngay phía sau tôi, chứ không đâu xa. Trên dãy phố Đoàn Trần Nghiệp những bức liễn đỏ như son, những nét chữ rồng bay phượng múa, bức trướng ông Táo, Thần Tài đầy dẫy. Dường như, ở vào thời điểm ấy, tôi chưa hề có cái cảm nhận về những chiếc lá vàng bay hiu hắt, mực đọng trong nghiên sầu. Mấy ông đồ nho viết liễn vẫn đắt hàng, ai cũng cần đến. Tôi chìm ngập trong tiếng pháo đùng vừa mải mê nhìn ngắm say sưa. Phải rồi, năm ấy tôi lên mười bốn tuổi. Chợ tết Bình Dương đã giúp tôi khám phá ra rằng, mình đã bắt đầu yêu. Bốn mươi năm rồi, tóc tôi đã chấm bạc, nhưng giờ đây cái xúc động rộn ràng, day dứt tim đập mãnh liệt nơi lồng ngực vẫn chưa hề mất đi. Vâng, chính là tình yêu đầu đời vụng dại của tôi. Chính cô gái ấy chứ chẳng ai khác. Đó là một cô bé tuổi khoảng 12, 13 tên là A Phón, hay ngồi cắn hạt dưa nhìn tôi cười mủm mỉm. Sạp hàng bánh mứt, thèo lèo cứt chuột kia ế khách, đủ thời gian cho nó ngồi liếc mắt lè lưỡi trêu chọc tôi. Tai tôi nóng bừng, xấu hổ. Nhưng quái lạ thật, lòng tôi như có chút gì đó thật dịu êm, nồng nàn. Đầu óc tôi bỗng dưng tưởng tượng ra biết bao điều kỳ lạ. Này A Phón, đừng cười nữa. Hai đứa mình sẽ cùng nhau đi qua chợ đồng hồ, rẽ sang bên này phố, ngồi lặng yên nơi góc đường hẹp, nhấm nháp một ly sâm bổ lượng, tận hưởng đầy đủ thú vị của cuộc đời. Hay em muốn chui vào giữa cột đồng hồ, kéo chiếc ghế con, ngồi xệch xuống gọi một tô bún bì chả, một đĩa bánh xèo nóng thơm giòn, ớt cay đến rát họng, ăn đến đâu thèm đến đó. Tôi mơ A Phón sẽ gật đầu. Cái ly sâm bổ lượng lành lạnh, đĩa bánh xèo ấm nóng ở chợ Bình Dương kia, dẫu có đầu thai kiếp khác cũng chẳng bao giờ ta nếm được Phón ơi...


A Phón không trả lời. Vậy là tôi lững thững đi một mình. Dưới chân cột đồng hồ, cái góc hình tam giác chia đều cho mấy quầy sách báo. A Phón, tôi sẽ mua tặng em quyển Tam Quốc Chí bằng tranh - chắc là em không rành tiếng Việt, ở ông già chủ tiệm Minh Thành nhận ra tôi, sẽ bán với giá rẻ. Bởi tôi và Thiệt con ông là bạn. Hoặc giả, tôi sẽ đến tiệm Ngọc Thành, mua cho em chiếc kẹp sơn mài có vẽ hoa lấm tấm bằng vỏ ốc. Nó sẽ cuốn gọn gàng những lọn tóc cháy nắng vàng hoe của A Phón. Như một kẻ mộng du, tôi lướt qua con đường Nguyễn Thái Học, nhà hàng Nam Bắc Hiệp lớn nhất Bình Dương xưa, nơi thể hiện kỳ tích của hai nhà doanh nghiệp một Bắc, một Nam, họp lại thành Nam Bắc Hiệp, đèn điện sáng choang và tấp nập bao người. “Có ai đi chợ Bình Dương hôn?”. Có tôi! Có tôi một thằng bé mười bốn tuổi trôi theo dòng người với sự ngô nghê ngốc nghếch. Nó nhìn đăm đăm lên tấm bảng hiệu nhà thuốc Võ Văn Vân, mà cứ mơ hai đứa bé cùng che chung chiếc dù kia là mình và A Phón...


Có ai đi chợ Binh Dương hôn? Câu hỏi trả lời hẳn nhiên là có. Bởi lẽ chợ Bình Dương giờ đây vẫn còn đó, to lớn, đồ sộ và hiện đại sau bốn mươi năm dài đằng đẳng. Hãy tha thứ cho chúng tôi, các bạn ạ! Sự to lớn, rực rỡ kia là phần của các bạn. Còn những gì của chúng tôi là quá khứ. Hãy đồng cảm và tha thứ cho tôi, nếu các bạn biết rằng vào những năm sau này, tôi chưa từng bước chân đến tham quan ngôi chợ mới, chia sẻ cùng các bạn những gì đang phát triển và tự hào.


Má tôi và tôi vẫn đi chợ Bình Dương. Bà lụm cụm, già nua đi tìm một thế hệ của riêng mình đã mất! Bà cứ ngỡ bây giờ đang vào phiên chợ tết, cái thời mà pháo nổ ì đùng quen tai. Ừ, pháo nổ hồi ấy vui lắm, thời của những đứa trẻ như bà vừa bịt tai đứng bên hè phố, vừa vui mừng la hét đến khản giọng: Bang Tề thua Bang Lũy. Bà cũng chẳng cần hiểu hai ông Bang kia là ai. Nhưng quả thật họ giàu có quá sức, thi nhau lấy pháo thay tiền mà đốt hàng mấy giờ đồng hồ liên tục. Dường như má tôi bao giờ cũng nhìn thấy rất gần, rất hạn hẹp, khuôn viên chợ Bình Dương chỉ lọt thỏm trong lòng bàn tay. Bà chẳng cần để ý đến khu chợ mới xây, to như trái núi trước mặt. Bà chỉ thích loanh quanh những cửa chợ hẹp vào ra hồi ấy. Chỗ này má tôi đã uống tô trà Huế mỗi ngày. Chỗ này có hàng bánh hỏi thịt quay, bún giá, rau sống thuở xưa nằm phía sau khu chợ vải to, có người bạn gái của bà làm chủ. Bà lập dị, bảo thủ, ngờ nghệch đến độ tội nghiệp.

Bà tìm mua một hũ chao, một lọ tương ớt ở tiệm chú Xổi đầu đường hồi đó, nhưng tìm mãi nào đâu thấy. Ra về. Chợt nhớ đến cha tôi, bà lật đật bước vào căn phố cũ ý định mua một vài lạng trà Thái Lai, chỉ có trà Thái Lai là má tôi ưng ý, nhưng cái hiệu trà nổi tiếng xưa đã lùi vào quá khứ còn đâu tăm dạng. Má ơi, má đã đi chợ Bình Dương với hành trình của một bà già đang cố sức mở những ô kéo ký ức màu vàng. Màu vàng từ chiếc cột đồng hồ cũ kỹ, dãy sạp hàng vàng vọt dưới ánh đèn măng sông lấp lóa cả màu vàng của những buổi sớm mai óng ánh tia nắng trên quãng đường làng ra chợ, cái màu vàng của thời gian lướt qua bảng lảng như những đám bụi mù.

“Có ai đi chợ Bình Dương hôn?”. Má ơi tôi muốn thốt lên, đi chợ với chúng tôi bằng xe ngựa dừng lại bên hông rạp hát Trần Trung. Ôi cái rạp hát bây giờ vắng lặng, hiu hắt, u buồn. Cái sân khấu mái vòm kiểu Tây đâu rồi, nó ấm cúng, thân thiện làm sao thời điểm mà nhạc sĩ Phan Hữu Lý, bạn tôi lúc còn là một cậu bé lên mười, đã ôm chiếc đàn guitar biểu diễn cùng với nhóm đồng ca thiếu nhi Phú Cường! Thời ấy đã ra đến chợ thì phải xem hát. Và rạp hát gắn liền với chợ như một thứ văn hóa, một thứ nhu cầu cần thiết. Cũng những hàng ghế này, thằng bé con như tôi bốn mươi năm xưa, rụt rè nắm tay ông anh trai lần đầu xem chớp bóng. Nó ngạc nhiên khi phải đứng lên tháo mũ ra khỏi đầu, nghiêm chỉnh nhìn lên màn ảnh. Lá cờ vàng chóe hiện lên chỉ toàn những màu đen và ồn ã tiếng quốc thiều trỗi dậy. Rồi nó say mê, lặng phắt đờ đẫn trước những cảnh đánh vật hát ca tình tự của những con người nhảy nhót trong phim Ấn Độ, những lực sĩ của thành Bá Đạt đã làm nhịp tim nó hồi hộp rộn ràng.


Má ơi! Chợ Bình Dương rồi sẽ không còn đọng lại trong ký ức má nay mai. Nó sẽ tan đi nhẹ nhàng như khói, như sương theo tuổi già và cái chết của má, một bà già lụm cụm, nhặt nhạnh bao hình ảnh của quá khứ. Và rồi, con cũng sẽ như vậy. Mỗi thế hệ tự nhìn ngắm, ước mơ, hy vọng những gì thân quen gần gũi với mình qua lăng kính cuộc đời. Chợ Bình Dương bây giờ là thế. Hiện đại, đồ sộ và ngẩng cao đầu với tầm cao công nghiệp với màu đỏ của gạch hoa, màu kính trắng lóa sang trọng. Nhưng có mỗi một điều má và con phải tin rằng tiếng vọng và dư âm của kỷ niệm vẫn ở đó, ở câu nói thốt ra từ cửa miệng mỗi người.


“Có ai đi chợ Bình Dương hôn?”.


Và tức khắc có ai đó sẽ trả lời...