Chúng tôi hướng lên
Bình Dương
GS Phạm Đức Liên
Mở đầu:
North
Carolina 4/4/2014
Diệp, Nên,
Tâm và CHS Trịnh Hoài Đức yêu, yêu lạ thường,
1.
Thầy viết bài nầy từ lúc ngồi chờ phi cơ từ Indy trở lại
Charlotte hồi đầu tháng 1/2014. Thế rồi, thầy phải ra vào bệnh viện vì
bị mổ. Thầy tiếp tục viết – tay run nhưng lòng không run - (tay thầy
run lắm!): vì môn sinh Trịnh Hoài Đức mến yêu.
a. Viết để chào mừng ngày Đại Hội Toàn Cầu THĐ lần
thứ 3, 7/2014.
b. Viết để tờ báo THĐ mà kỹ sư Từ Minh Tâm làm chủ
bút đã có uy tín lại càng uy tín hơn với những bài khảo cứu về STEM, và
văn học nghệ thuật.
Thầy viết vừa xong lúc 2 giờ sáng ngày thứ sáu 4/4/2014. Xin đa tạ ngài
Trịnh Hoài Đức, tổ tiên Hùng Vương, và nội ngoại dân tộc Văn Lang.
Tháng tư là tháng buồn nhất của thầy: đầu tháng mất bố, giữa tháng mất
vợ, cuối tháng bỏ nước ra đi!
2.
Bài nầy, GS Sử Địa Phạm Đức Liên viết là tuỳ bút thế nhưng là đem
tâm tình viết lịch sử cận và hiện đại Việt Nam và: “Càng viết càng đau
đớn lòng” - đến độ xấu hổ - vì 100 đại học (TOP 100) của Á Châu không
có bóng dáng Việt Nam Lục Địa – trong khi hoà bình để xây dựng đất nước
đã 39 năm và trong nước hiện có 25,000 tiến sĩ !!
3.
Phấn khởi vì 3 tháng qua đã viết xong bài: “Chúng tôi hướng lên
Trịnh Hoài Đức” lồng trong khung cảnh lịch sử và địa lý của dân tộc,
nhưng buồn quá vì dân tộc Việt Nam quá thông minh, sinh viên Vạn Xuân
quá xuất sắc. Giáo sư Thạc Sĩ de Lanessan đã chứng minh 100% trong
những tác phẩm của ông từ đầu thế kỷ 20 sau khi ông đã làm Toàn Quyền
Đông Dương (1891-1894).
“Loving,
loving the Vietnam people,
Intelligent
and hard-working,
Exquisite
black – two big eyes,
Shining
through since birth.”
Kính
chào CGS và CHS Trịnh Hoài Đức.
*******
A.
Vài nét địa lý về tỉnh Bình Dương mến yêu:
- Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Miền Nam Việt Nam
là một quốc gia độc lập, dân chủ và được các nước trong khối tư bản
công nhận - thủ đô là Sài Gòn. Việt Nam tự do có dân số 18 triệu người
và diện tích 170,820 cây số vuông (hay 65,700 square miles ) - được
chia ra thành 45 tỉnh – mà Bình Dương là một trong những tỉnh trù phú
của Miền Đông Nam Phần. Bình Dương chạy dài Bắc – Nam 50 km (1 giờ lái
xe) và trải ngang Đông – Tây (Bến Súc , Bến Cát) khoảng 40 km (1 giờ xe
hơi). Diện tích là 2,000 km2.
- Bình Dương: bắc giáp Bình Long, nam giáp Gia Định
(Sài Gòn), đông giáp Phước Thành, Biên Hoà, tây giáp Tây Ninh, Hậu
Nghĩa. Tỉnh lỵ đặt ở Thủ Dầu Một (Phú Cường), cách Sài Gòn 30 cây số về
hướng bắc.
- Bình Dương là bình nguyên và đồi thấp (Núi Ông cao
280 mét). Như các tỉnh Nam Phần, Bình Dương có 2 mùa mưa nắng rỏ rệt.
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
Quốc lộ 13 , Liên tỉnh lộ 14, Tỉnh lộ 2… là những con đường huyết mạch
nối Bình Dương và các tỉnh khác. Hai con sông chính của tỉnh là:
o Sông Sài Gòn ở phía tây là phụ
lưu hữu ngạn của sông Đồng Nai chảy dọc từ bắc xuống nam đi ngang qua
thị xã Phú Cường và tỉnh Gia Định.
o Sông Bé ở phía đông bắc cũng là
phụ lưu của sông Đồng nai, từ Quảng Đức chảy qua các tỉnh Phước Long,
Bình Long, Phước Thành (là ranh giới Bình Dương với Bình Long, Phước
Thành).
- Thập niên 1960, dân số Bình Dương là khoảng 500,000
người (đa số là người Kinh, rồi đồng bào Thượng Stiêng, người Hoa,
Khmer, Việt gốc Chàm…). Nông sản là lúa gạo, mía, cao su, thuốc
lá, đậu phọng và nhiều vườn cây ăn trái (như chôm chôm, măng cụt, sầu
riêng…) ngon ngọt ở Lái Thiêu, Cầu Ngang, Búng (cách tỉnh lỵ khoảng 6
km). Búng cũng là nơi có trường trung học Trịnh Hoài Đức nổi tiếng.
Bình Dương còn có các sản phẩm thủ công như sơn mài, đồ gốm, đồ gỗ… nổi
danh. Lâm sản Bình Dương là nguồn lợi kinh tế đáng kể (gỗ, tre, mây…).
- Búng là quê hương của nhà cách mạng Phan văn Hùm.
Và còn gì hạnh phúc bằng: du khách vào vườn trái cây xum xuê – ăn tại
chỗ- và hái đem về:
Lái Thiêu yêu - sắc hương trời,
Bao thôn nữ đẹp – ca lời thiên thai !
- Bình Dương - vốn là đất hoang vu của Thuỷ Chân Lạp.
Rồi đến đầu thế kỷ thứ 18, các chúa Nguyễn bắt đầu khai khẩn và thuộc
Gia Định thành. Năm 1834, vua Minh Mạng đặt tên Nam Kỳ (để gọi chung
cho 6 tỉnh Nam Phần là Gia Định, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An
Giang và Hà Tiên). Thời Pháp Thuộc, thực dân chia Nam Phần thành 20
tỉnh – và đất Bình Dương thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. An Sơn (thuộc Lái
Thiêu) là một căn cứ chống Pháp mãnh liệt những năm 1945, 1946, 1947.
Năm 1956, VNCH đổi Thủ Dầu Một thành tỉnh Bình Dương và đưa ra 6 quận:
Trị Tâm, Bến Cát, Phú Giáo, Phú Hoà, Châu Thành và Lái Thiêu. Năm 1957,
Phú Giáo được tách ra cùng với 2 quận của Biên Hoà mà lập thành tỉnh
Phước Thành. Một thời gian sau, tỉnh Phước Thành bị giải tán và các
quận trở về tỉnh cũ. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hà Nội sát nhập 3
tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long thành tỉnh Sông Bé. Tỉnh lỵ đặt
tại Thị Xã Thủ Dầu Một (Phú Cường). Đến năm 1990, Sông Bé lại tách
thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước.
B. Hoàn cảnh
lịch sử:
1. Hiệp định Geneve (ngày 20/7/1954) các cường quốc
Nga Sô, Trung Cộng, Anh, Pháp … xâu xé Việt Nam, như liệt cường xâu xé
Trung Hoa thế kỷ trước.
a. Chiến tranh Đông Dương lần thứ
nhứt (1945-1954) bắt đầu từ cuối năm 1945. Một bên là thực dân Pháp
nhất định dành lại thuộc địa Đông Dương mà họ đã dầy công xây dựng
trong gần một thế kỷ (nhất là Việt Nam: tài nguyên mầu mỡ, và dân chúng
thông minh, chăm chỉ - theo tờ trình của de Lanessan – Toàn Quyền Đông
Dương 1891-1894 – lên chánh phủ Pháp. Ông vốn là Giáo Sư Đại Học
Paris). Một bên là con dân Lạc Hồng (không phân biệt Quốc Gia hay Cộng
Sản) quyết sống chết cho nền độc lập và thống nhất của xứ sở - mà chúng
ta đã cầm chắc trong tay sau ngày 9/3/1945.
b. Thế nhưng sau khi Mao Trạch
Đông làm chủ Trung Hoa Lục Địa (1949) thì chiến tranh Đông Dương đổi
chiều (Trung Cộng viện trợ súng đạn, kinh tế, cố vấn, nhân tài vật lực
vô bờ bến cho Việt Minh. Cụ thể, năm 1953, Mao Trạch Đông trao cho Võ
Nguyên Giáp 30 khẩu đại bác 105 ly; 400 khẩu pháo không giật 60, 81 và
120 ly; 500 khẩu đại liên…) Chiến tranh Đông Dương là nơi tranh hùng
giữa phe Cộng Sản và phe Tư Bản mà Việt Nam là nơi chiến trường trắc
nghiệm!. Tháng 12 năm 1950 – ngay sau khi nhậm chức Cao Uỷ Đông Dương
kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội Liên Hiệp Pháp, Đại Tướng De Lattre đã bay
gấp qua Washington DC để cầu cứu Tổng Thống Eisenhower (người anh cả
phe Tự Do). Mỹ quân viện cho Pháp 70% quân phí và Mỹ đài thọ 50%
binh phí cho quân đội quốc gia Việt Nam (qua trung gian của Pháp). Mỹ
đã viện trợ 3 triệu USD mỗi ngày cho cuộc chiến Đông Dương từ năm 1951
là một điển hình.
c. Ngày 11 tháng 7 năm 1951, tại
Sài Gòn, trong dịp phát thưởng ở trường trung học Chasseloup Laubat,
Đại Tướng De Lattre kêu gọi thanh niên Việt Nam đáp ứng nhu cầu lịch sử
trước “Đế Quốc Bắc Phương”. Ông nói như rót vào tai giới trẻ 18, 20 :
ngọt ngào và quả quyết: “Khi quốc gia đang ngồi dưới bóng tử thần,
thanh niên là những bông hoa hàm tiếu, phải biết nở đúng lúc để mang
lại kết quả mong muốn trước khi thấy ánh bình minh. Là thanh niên trí
thức, các bạn phải đòi cho được đặc ân ưu tiên ra trận.”… “Vào giờ phút
sinh tử của số phận Á châu nầy, hành động mà lịch sử chờ đợi ở các bạn
đã vượt quá tầm vóc của quốc gia của nước bạn. Vì Đế Quốc Bắc Phương đã
khai hoả!” … “ Vậy thì chỉ có trung thành với lý tưởng do Đức Quốc
Trưởng Bảo Đại mới tìm ra chân lý ấy. Tôi tin rằng nước Việt Nam sẽ
được cứu thoát do chính các bạn”.
Trước đó hơn
một tháng, ngày 30 tháng 5 năm 1951, con của Đại Tướng là Trung Uý
Bernard đã hy sinh tại mặt trận Ninh Bình. Ông nghẹn ngào nói với Quốc
Trưởng Bảo Đại: “ Thưa Hoàng Thượng, Bernard đã hy sinh trên đỉnh núi ở
Ninh Bình. Bernard đã chết cho Việt Nam”.
Quốc Trưởng Bảo Đại và Đại Trướng De Lattre (Cao Uỷ Pháp tại Hà Nội năm
1951
d. Trục Bá Linh, La Mã, Đông Kinh thất bại và sau khi
Nhật Bản đầu hàng (tháng 8 năm 1945), thực dân Pháp nổ lực tái chiếm
Việt Nam – trong danh dự - có nghĩa là muốn người Việt cộng tác chặt
chẽ: Việt Nam độc lập và thống nhất trong Liên Hiệp Pháp. Người Pháp
vừa đánh vừa đàm (Việt Nam cũng muốn thế vì lực lượng quân sự còn yếu
lắm!): Hiệp Định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hội Nghị Đà Lạt tháng 4
năm 1946, Hội nghị Fontainebleau (gần Paris) tháng 7 năm 1946, Tạm Ước
(Modus Vivendi) giữa Marius Moutet (Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại) và
Chủ Tịch Hồ Chí Minh… Nhưng chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vẫn
tiếp tục – tiêu thổ kháng chiến từ ngày 19 tháng 12 năm 1946. Việt Minh
rút lên chiến khu Việt Bắc. Người Quốc Gia (Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế
Tổ, Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn văn Tố …) phần nào đã
hiểu được màu đỏ của ông Hồ mà lặng lẽ “dinh tê’ (ở lại , hay tìm về
nơi quân Pháp chiếm đóng), hầu tìm một giải pháp tốt đẹp cho dân tộc.
“Dinh Tê” không phải là dễ - Việt Minh biết là “mò tôm”.
e. Đánh và đàm với Hồ Chí Minh
không thành công, người Pháp tìm đến Cựu Hoàng Bảo Đại. Đúngs lúc –
tháng 9 năm 1947 - đại diện 3 miền Bắc Trung Nam và Hải Ngoại (Nguyễn
Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long …) bay đến Hongkong yết
kiến Cựu Hoàng và xin ngài lãnh đạo phe Quốc gia mà tranh đấu cho độc
lập và thống nhất quê hương. Tháng 5 năm 1948, Thiếu Tướng Nguyễn Văn
Xuân đệ trình Nội Các Trung Ương Lâm Thời lên Quốc Trưởng. Ngày 2 tháng
6 năm 1948, thủ Tướng Xuân công bó bản quốc ca và quốc kỳ Việt Nam: ba
vạch đỏ song song tượng trưng cho 3 miền, trên nền vàng là màu của
Hoàng Gia (Nguyễn).
f. Với sự hiện diện của Hoàng Đế
Bảo Đại, ngày 5 tháng 6 năm 1948, tại Vịnh Hạ Long, Bản Tuyên Bố Chung
được ký kết giữa ông Emile Bollaert – Cao Uý Pháp ở Đông Dương và Thiếu
Tướng Nguyễn Văn Xuân - Thủ Tướng Chánh Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt
Nam (Etat du Vietnam)…
Bản tuyên Bố chung ký ngày 5/6/1948 ở Vịnh Hạ Long
giữa Pháp và Quốc Gia Việt Nam:
1. Nước Pháp long trọng công nhận
nền độc lập của Việt Nam, người Việt Nan được tự do thực hiện nền thống
nhất của mình. Về phía Việt Nam, nước Việt Nam tuyên bố sự sát nhập và
Liên Hiệp Pháp dưới danh nghĩa một quốc gia liên kết với nước Pháp. Nền
độc lập của Việt Nam không có một giới hạn nào khác, ngoài giới hạn, mà
Liên Hiệp Pháp dành cho mình.
2. Nước Việt Nam cam kết tôn trọng
mọi quyền hạn và quyền lợi của cá tư nhân Pháp, cam kết bảo đảm các căn
bản dân chủ, và dành ưu tiên sử dụng các nhà chuyên môn, cố vấn Pháp
trọng mọi nhu cầu tổ chức nội bộ và khuếch trương kinh tế của mình.
3. Sau khi thành lập chánh phủ lâm
thời, các đại diện của Việt Nam sẽ thoả thuận với các đại diện của Cộng
Hoà Pháp Quốc, những sự thoả thuận hợp lý về các vấn đề ngoại giao,
kinh tế, tài chánh, và chuyên môn.
Làm thành
hai bản chỉ ở Vịnh Hạ Long, ngày Năm tháng Sáu năm Một Nghìn Chín Trăm
Bốn Mươi Tám.
Bollaert
Bảo Đại
Nguyễn Văn Xuân
Nghiêm Xuân Thiện - Đặng Hữu Chí – Phan Văn Giáo -
Nguyễn Khoa Toàn – Đinh xuân Quảng - Trần Văn Hữu – Lê Văn Hoạch.
Quốc
Trưởng Bảo Đại, cầm bút ký Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5/6/1948 cùng Cao
Uỷ Bollaert - Pháp
g. Chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất vẫn tiếp tục đẩm máu (Học sinh Trịnh Hoài Đức
những khoá đầu được sinh ra trong khoảng thời gian nầy – 1945). Một bên
là Việt Minh được khối Cộng Sản (chủ yếu là Trung Cộng) viện trợ tối đa
và một bên là Pháp và phe Quốc Gia được Hoa Kỳ tiếp sức. Cuộc chiến chỉ
chấm dứt ngày 20/7/1954 khi các siêu cường chia đôi lãnh thổ Việt Nam ở
vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải).
• Từ Hang Bắc
Pó (Cao Bằng – cách biên giới Việt Trung khoảng 3 km) Hồ Chí Minh về Hà
Nội tháng 10 năm 1954 (người viết khi đó là học sinh lớp đệ Ngũ trường
trung học Nguyễn Trãi – Hà Nội đã làm hàng rào danh dự của thủ đô đón
chào Chủ Tịch - rồi sau đó lặng lẽ xuống Hải Phòng, di cư vào Sài Gòn).
Việt Minh được một nữa giang sơn cẩm tú. Hoà ước Geneve (Thuỵ Sĩ) cho
300 ngày để hai bên tập trung và di chuyển. Cả trăm ngàn binh lính, du
kích và cán bộ ở miền Nam được tập kết ra Bắc sau khi đã chôn dấu vũ
khí và hẹn ngày tái ngộ cùng vợ con. Việt Minh cũng không quên gài lại
một số cán bộ nằm vùng ở Miền Nam vì ngay từ những năm 1951, 1952 khi
tung ra giai đoạn tổng phản công trên khắp chiến trường Bắc Nam, Việt
Minh tiên đoán là họ sẽ chiếm được một nửa lãnh thổ nên đã chuẩn bị cho
một số cán bộ học tập: “Khi đất nước bị chia làm hai – chúng ta phải
làm gì ở phần đất còn lại?”.
• Sài Gòn là
thủ đô của Miền Nam, một quốc gia trải dài từ sông Bến Hải tới Mũi Cà
Mau phì nhiêu. Được sự giúp đỡ của Hoa Kỳ - 900,000 dân miền Bắc (trong
đó 500,000 là giáo dân Thiên chúa) đi tìm ánh sáng Miền Nam. Sau nầy,
họ là một trong mấy lực lượng xây dựng chế độ Cộng Hoà (26/10/1955). Là
học sinh lớp đệ Tứ (1955/56) trung học Nguyễn Trãi Sài Gòn - đồng thời
là đoàn viên đoàn thanh thiếu niên Cần Lao, người viết đã vào từng ngỏ
hẽm vùng Chợ Lớn để hướng dẫn đồng bào bỏ phiếu trong trưng cầu dân ý
(23/10/1955) – “xanh bỏ, đỏ bì” - (phiếu màu xanh là phiếu của vua Bảo
Đại thì bỏ, phiếu màu đỏ là phiểu bầu cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm – thì
cho vào bao thơ và bỏ vào thùng phiếu). Vua Bảo Đại chỉ được 63,017
phiếu, trong khi ông quan của nước Mỹ được 5,721,735 phiều (chiếm tỉ lệ
99%) (1) để trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà. Người lính Pháp
cuối cùng rút khỏi Sài gòn tháng 4 năm 1956.
• Ai chi tiền,
súng đạn, thì người đó chỉ huy. Miền Bắc cũng như Miền Nam không có chủ
quyền. Đó là cái đớn đau của nổi buồn nhược tiểu. Chính quyền 2 miền
đẩy con dân làm bia đở đạn cho Tư Bản và Cộng Sản mà thôi! Đau đớn quá
con cháu Rồng Tiền!
2. Tổ Quốc Lâm Nguy” - Tất cả chúng ta hướng về nông
thôn, 1960:
a. Theo Hiệp Định Genève
(20/7/1054) thì tháng 7 năm 1956, hai miền Nam Bắc cùng nhau tổ chức
Tổng Tuyển Cử để thống nhất giang sơn qua sự kiểm soát của Uỷ Hội Quốc
Tế (Canada, Ấn Độ, và Ba Lan). Hà Nội hồ hởi - thế nhưng Sài Gòn do áp
lực của Mỹ (nhất là Ngoại Trưởng Foster Dulles) lấy cớ là miền Bắc
không có tự do, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho tổ chức biểu tình chống
Tổng Tuyển Cử và từ chối hiệp thương hai miền!. Từ đó, Ông Hồ cương
quyết xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực thay vì phát triển kinh tế miền
Bắc: canh nông - nhất là công nghệ (sản xuất máy móc, xe hơi, đồ điện
tử …) bằng cách triệt để dùng trí thông minh (2) chăm chỉ và kỷ luật
của con cháu Lạc Hồng ngỏ hầu vươn lên cùng thế giới như Nhật Bản, Nam
Hàn, Tân Gia Ba …
b. Sẵn có những mật khu và cán bộ
nằm vùng, từ năm 1957, phe Cộng bắt đầu tổ chức những cuộc tấn công các
đồn bót lẻ tẻ và những quận lỵ hẻo lánh hoặc khủng bố, ám sát những
viên chức xã ấp thuộc chánh quyền Sài Gòn. Họ có căn cứ ở:
• Chiến khu Đỗ
Xá (ranh giới ba tỉnh Pleiku, Quảng Nam, Quảng Ngãi).
• Mật khu Dương
Minh Châu (Chiến khu C – Tây Ninh)
• Chiến khu D
(Bình Dương).
• Mật khu hay
những xóm “tự do” ở Đồng Tháp Mười.
• Chiến khu hay
những “làng rừng” – khu vực U Minh ở Miền Tây…
c. Tháng 5 năm 1959, Ông Hồ ra lịnh cho Thượng Tá Võ
Bẩm (gốc Quảng Ngãi) mở đường mòn 559 (Binh Đoàn 559) sau nầy là đường
mòn Hồ Chí Minh để chuyên chở vũ khí và cán bộ từ Miền Nam tập kết ra
Bắc trở lại Miền Nam hoạt động. Tháng 7 năm 1959, đoàn 759 ra đời. Đây
là đoàn tàu chuyên chở và tiếp viện cho miền Nam bằng đường biển (còn
gọi là đoàn 125). Những trận đánh do phe Cộng tổ chức từ sau năm 1960
có nhiều lính chánh quy từ miền Bắc xâm nhập.
Đường mòn Hồ
Chí Minh trên bộ và trên biển
d. Tháng 9 năm 1959, lần đầu tiên, tiểu đoàn 502 Kiến
Phong (là tiểu đoàn 2 giải phóng, quân số một tiểu đoàn là 500 đến 700
lính với 3 đại đội tác chiến và 1 đại đội chỉ huy - tiểu đoàn trưởng là
đại uý hay thiếu tá) đánh phục kích làm thiệt hại nặng một đơn vị của
Sư Đoàn II Khinh Chiến tại Hồng Ngự (Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười) của
VNCH.
Tháng 11 năm
1959, một tiểu đoàn khác của Cộng quân tấn công quận lỵ Sông Ông Đốc và
đốt phá Khu Trù Mật… Cho tới cuối năm 1959, Cộng quân đã hành quân cấp
tiểu đoàn, không kể du kích yểm trợ. Đến đầu năm 1960, họ đánh đến cấp
trung đoàn (trên dưới 2500 quân, chỉ huy trưởng là trung tá, thượng tá
). Cụ thể, VC làm tan rã Trung Đoàn 32 (Trung Đoàn Trưởng là Thiếu Tá
Nguyễn văn Mân) thuộc sư đoàn 21 (Tư Lịnh Sư Đoàn là Trung Tá Trần
Thanh Chiêu – thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm - dù ông Chiêu
không hề có kinh nghiệm chỉ huy đơn vị tác chiến!) ở Trảng Sụp,
Tây Ninh.
Trận Trảng
Sụp, TĐ 32 tan rã, Đại Tá Trần Thiện Khiêm tân tư lịnh sư đaòn 21 xin
yểm trợ một tiểu đoàn dù. Thay vì chặn địch ở biên giới, ông lại điều
động tiểu đoàn dù đuổi địch để họ rút êm qua Campuchia!
• Trảng Sụp nằm
trên QL 22, phía bắc tỉnh Tây Ninh 7 km (Tỉnh Lỵ Tây Ninh các Sài Gòn
95 km về phía tây bắc) và cách biên giới Cao Miên 20 km. Tỉnh Tây Ninh
rộng 3,500 km2. Trảng Sụp là căn cứ của Trung Đoàn 32 VNCH (doanh trại
được xây cất năm 1958, chu vi căn cứ khoảng 4 km, gồm 8 dãy nhà: Bộ Chỉ
Huy Trung Đoàn, Đại đội súng nặng 81 ly, đại đội công vụ (mỗi đại đội
có khoảng 120 binh sĩ), 3 tiểu đoàn cơ hữu (1, 2, 3). Phía bắc căn cứ
là chiến khu C (Dương Minh Châu, Kà Tum, Bổ túc, … nằm sát biên giới
Miên).
• VC tràn vào
Trảng Sụp lúc 1 giờ sáng ngày 26 tháng 1 năm 1960 (27 tháng chạp năm
Canh Tý) làm thiệt hại 20 quân nhân VNCH rồi vào khu quân xa lấy xe GMC
vào kho súng chở trên 1,000 vũ khí đủ loại rồi rút vào Chiến Khu C.
Trung Tá Chiêu bị cách chức. Tư Lịnh mới là Đại Tá Trần Thiện Khiêm.
Trận đánh nầy làm chấn động dư luận và cố vấn Mỹ. (3).
• Trong một
cuộc họp báo sớm nhất – ngay sau khi Trung Đoàn 32 VNCH tan rã ở Trảng
Sụp, Tây Ninh, phát ngôn nhân Bộ Quốc Phòng tuyên bố: “Notre pays est
en danger” – “Tổ Quốc lâm nguy”. Cho tới lúc nầy, (1960-61) tiếng Pháp
– bán chánh thức - vẫn còn thông dụng ở thượng tầng kiến trúc. Cụ thể ở
đại học (trừ trường Luật) toàn là giáo sư người Pháp – cho dầu lác đác
có thầy cô người Việt nhưng họ giảng bài bằng Pháp ngữ vì thầy cô vừa
tốt nghiệp ở đại học bên Pháp về, và sách học hay khảo cứu toàn là
tiếng Pháp (nhà sách Lê Phan).
Rồi ngay sau
đó, phát ngôn viên Bộ Giáo Dục lại tuyên bố: “Chúng ta, Sài Gòn, tất cả
hướng về nông thôn đang đắm chìm trong máu lửa”. Thực tế là sinh viên
các trường chuyên nghiệp như Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, Trung Tâm Kỹ
Thuật Phú Thọ, Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học Nông Lâm Súc … sau khi ra
trường không một ai được làm việc ở Sài Gòn – dù là TOP5 của lớp tốt
nghiệp.
• Đối với
trường hợp các sinh viên tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm thì Sài Gòn là
trung tâm điểm. Các trường học ở tỉnh như sau: Vòng tròn thứ nhất là
Trung Học Trịnh Hoài Đức - Bình Dương và Ngô Quyền – Biên Hoà. Vòng thứ
hai là Trung Học Tân An. Vòng thứ ba là Nguyễn Đình Chiểu, Lê thị Ngọc
Hân - Mỹ Tho. Vòng thứ tư là Tống Phước Hiệp – Vĩnh Long. Vòng thứ 5 là
Phan Thanh Giản, ĐoànThị Điểm - Cần Thơ… Mỗi buổi lễ chọn nhiệm sở được
tổ chức ở Viện Đại Học Sài Gòn trước sự hiện diện của Viện Trưởng Viện
Đại Học và Thứ Trưởng Giáo Dục. Sinh viên từng ban (8 ban: Triết, Việt
Hán, Sử Địa, Anh, Pháp, Toán, Lý Hoá, Vạn Vật) được mời vào và tuỳ theo
thứ bậc cao thấp trong kết quả cuộc thi tốt nghiệp mà chọn nhiệm sở. Đổ
cao thì được gọi tên trước và có nhiều trường trung học để chọn lựa.
Danh sách nhu cầu của từng trường đã được Bộ Giáo Dục sắp xếp cho các
môn học ngay từ đầu mỗi niên khoá (tháng 10, 11)
C. Chúng tôi hướng lên Trung Học Trịnh Hoài Đức –
Bình Dương:
a. Trên nguyên tắc, trường Đại Học
Sư Phạm Sài Gòn đào tạo giáo sư trung học đệ nhứt và đệ nhị cấp. Tuỳ
theo ngân sách, có năm tuyển sinh viên từ Tú Tài 2 rồi học 2 năm là GS
trung học đệ nhứt cấp, học 4 năm thành giáo sư trung học đệ nhị cấp (GS
Cử Nhân = Professeur Licencie – danh xưng mà người Phpas dùng ở Paris
và được dịch sang tiếng viết rất trang nhã và tôn sư trọng đạo). Có khi
trường tuyển sinh viên đã đổ chứng chỉ Dự Bị Khoa Học hay Văn Khoa để
tiếp tục huấn luyện trong 1 năm hay 3 năm. Thế nhưng giáo dục phát
triển, nhu cầu giáo sư trung học đệ nhị cấp là ưu tiên nên Đại Học Sư
Phạm chủ yếu đào tạo Giáo Sư Cử Nhân để dạy học sinh Tú Tài - thật căn
bản - trước khi bước vào đại học. Giáo sư trung học đệ nhứt cấp thì
được Bộ giáo Dục tuyển từ những sinh viên đã có 1, 2, 3 năm đại học (4
năm là cử nhân) . Đôi khi thiếu quá, Bộ Giáo Dục mở những khoá huấn
luyện cấp tốc - tự đào tạo lấy giáo sư trung học đệ nhứt cấp (mà không
qua ĐHSP). Phẩm chất chắc chắn chỉ được 60%.
b. Chúng tôi hướng lên Trung Học
Trịnh Hoài Đức – Bình Dương:
Di cư vào
Sài Gòn, tôi học lớp Đệ Tam B2, niên khoá 1956-1957 tại trung
học Chu Văn An (4) Sài Gòn.
Trong hình:
trò Phạm Đức Liên thấp nhất – ít tuổi nhất - ở giữa hàng (tay áo xắn
lên. Trong hình đã có người khuất núi, có người hy sinh cho Việt Nam
(như trung uý Bernard), có người khóc thầm vì lâu quá con rồng Việt Nam
không bay lên được trong khi Rồng Tiên là dòng giống thông minh chăm
chỉ, kỷ luật.
Sân trường ĐH SP Saigon niên khoá 1964/65. Madame
đứng giữa hình, chắp tay là Professeur Docteur Langlet
Lớp Sử Địa
trường ĐHSP, có 1,000 thí sinh dự thi, lúc tuyển vào có 40 sinh viên.
Đầu năm thứ ba (năm chót) chỉ còn 34 sinh viên. Hình chụp chỉ có nửa
lớp. Số 1 là GS Nguyễn Thiện Thuật, số 2 là Phạm Đức Liên. Đại Học Sư
Phạm ban ngày là trường thầy giáo (8AM-6PM). Buổi tối (6:15PM – 9PM)
dạy sinh ngữ. Anh Thuật học tiếng Nhật, Liên chọn Anh Ngữ và tốt nghiệp
sau 3 năm học.
• Chúng tôi là Giáo Sư Nguyễn
Thiện Thuật và tác giả. “Sài Gòn hướng về nông thôn” còn áp dụng thời
đệ nhị Cộng Hoà. Chúng tôi ra trường đầu tháng 6 năm 1965 và chọn nhiệm
sở vào tháng 7. Sinh viên sau khi tốt nghiệp được biết sơ qua về những
nhiệm sở. Anh Thuật và tôi đã đi thăm viếng một vòng các trường quanh
Sài Gòn và quyết định cùng về Trịnh Hoài Đức là trường lớn của tỉnh.
Hôm thăm trường, anh Thuật và tôi đều thấy: Học trò Bình Dương hiền và
lễ phép. Những trường trung học đệ II cấp gần Sài Gòn nhất (Ngô Quyền –
Biên Hoà và Trịnh Hoài Đức – Bình Dương… ) nhu cầu thường chỉ là 1 giáo
sư Sử Địa và Công Dân (lúc đó các lớp đệ nhị cấp có thêm môn Công Dân
Giáo Dục - vả lại chúng tôi đã được học thêm ở trường với Tiến Sĩ Luật
Luật Khoa Phan Thiện Giới). May quá, trường Trịnh Hoài Đức niên khoá
nầy cần 2 thầy Sử Địa cho năm học 1965-1966. Anh Thuật vào chọn nhiệm
sở đầu tiên và lấy THĐ1. Tiếp theo là tôi nhận THĐ2. Chúng tôi
bảo nhau: “Đất lành chim đậu nhé!”. Tôi lại quen với hai anh Trần Quang
Tuấn (GS Lý Hoá), Nguyễn Huy (GS Sử Địa) – các anh là cream of the crop
ở ĐHSP Sài Gòn .
• Hôm lên Trịnh Hoài Đức trình
diện, chúng tôi gặp ông Hiệu Trưởng Nguyễn Đức Lâm. Đường đi không an
ninh lắm, sợ lôi thôi, chúng tôi dấu sự vụ lịnh trong vớ giầy. Chúng
tôi cùng vào gặp ông Hiệu Trưởng cùng một lúc. Ông Lâm thấy 2 sự vụ
lịnh không được phẳng phiu thì tủm tỉm cười. Chúng tôi vui vì đã có
việc làm.
Trình diện ngày nào thì bắt đầu ăn lương ngày đó.
Chỉ số lương là 470, công chức hạng A. Không dễ đâu. Tôi ngồi ở Phòng
Giám Học để làm việc hành chánh phụ GS Phạm Ngọc Em. Hai ba ngày sau,
có anh Đoàn Phế, chị Đàm Thị Thanh Quý .. tới trình diện nhà trường.
Những tinh hoa của ĐHSP Sài Gòn về Trịnh Hoài Đức hay Ngô Quyền – Biên
Hoà và quí vị giáo sư nhiều năm kinh nghiệm từ các tỉnh chuyển về đó
trước khi về nhiệm sở cuối cùng của đời thầy cô là Sài Gòn. Tôi yêu
Trịnh Hoài Đức lắm: học trò thông minh, chăm chỉ, kỷ luật và “Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài”./.
Chiều bịnh viện CMC
3/4/2014
Phạm Đức Liên, Ed.D
GS Sử Địa TH Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Trãi
Former Prof,
Central Piedmont Community College, NC
Chú Thích:
(1): Đây là
một tỉ lệ quá cao – ngoài dự tính của cố vấn tối cao Đại Tá Lansdale
(làm việc cho CIA). Landsdale từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh (1944-45),
rồi cố vấn cho Ngô Đình Diệm (1954-57). Cùng theo Landsdale thì cố vấn
Mỹ, đủ các lãnh vực, bao quanh ông Diệm dầy đặc, trừ khi ông ngủ. (Tôi
là quân sư cho Ông Diệm, nxb Văn Học – Sài gòn 1972). Landsdale về sau
lên thiếu tướng.
(2) Sự thông
minh lắm của người Việt nam so với những dân tộc bị trị khác đã được GS
Thạc Sĩ (Prof. Agrégé) về Sinh Vật Học của trường Đại Học Y Khoa Paris
khẳng địnhqua những công trình khảo cứu của ông trong cuốn Les Missions
et Leur Protetorat, Paris 1907. Jean Marie Antoine de Lanessan đã là
Toàn Quyền Đông Dương (1891-1894).
(3) Tháng 7
năm 1954, 50 quân nhân Mỹ đến Sài Gòn làm Cố Vấn Quân Sự (MAAG =
Military Aid Advisory Group = Cơ Quan Quân Sự Viện Trợ Mỹ) do tướng
O’Daniel cầm đầu (trong đó có Landsdale).
MAAG sau đổi
thành MACV (Military Assistance Command Vietnam). Chỉ huy là tướng Paul
Harkins. Cuối năm 1962, tại Miền Nam có tổng cộng 18,000 cố vấn quân sự
Mỹ. Trung bình mỗi tỉnh có 400 cố vấn (tương đương 1 tiểu đoàn) Mỹ,
xuống đến các quận.
Quân đội Mỹ
tham chiến ở Miền Nam Việt Nam đông nhất là tháng 1/1969 với 550,000
binh sĩ. Sau hiệp định Paris 1973 thì chỉ còn Cơ Quan Tuỳ Viên Quân Sự
DAO = Defence Advisory Office.
(4) Nguyễn
Trãi, Chu Văn An là hai trường trung học công lập đệ nhị cấp lớn nhứt
Miền Bắc ở Hà Nội. Nguyễn Trãi ở đường Gia Long gần Hồ Hoàn Kiếm, khu
trung tâm. Chu Văn An là trường Bưởi gần Hồ Tây, phía tây xa xa.. Cả
hai trường dành cho nam sinh. Các tỉnh miền Bắc chỉ có trường trung học
đệ nhứt cấp. Ngay cả Nam Định là thành phố lớn thứ 2 Miền Bắc
cũng không có đệ nhị cấp. Học trò ban Tú Tài phải trọ học ở Hà Nội. Sau
hiệp định Genève hai trường đều di chuyển vào Sài Gòn nhưng Ban Giám
Hiệu trường Nguyễn Trãi lại ở lại Hà Nội. Khi vào Sài Gòn, Nguyễn Trãi
như rắn không đầu, chỉ mở các lớp đệ nhất cấp và phải học nhờ vào buổi
trưa (11-2 giờ) ở trường tiểu học Trương Minh Ký. Học hết đệ tứ, thi
xong Trung Học Đệ Nhứt Cấp thì học sinh phải xin học đệ tam ở Chu Văn
An hay Pétrus Ký. Giữa thập niên 1960, Nguyễn Trãi mở lại các lớp đệ
nhị cấp và có trường sở ở Quận 4 Sài Gòn. Từ từ lấy lại phong độ thuở
xưa. Sau 7 niên học và gắn bó với Trịnh Hoài Đức, tác giả được đổi về
dạy ở trường Nguyễn Trãi (tôi là CHS Nguyễn Trãi Hà Nội/Saigon).