Khóa I Cao Học Giáo Dục, 1970

Phạm Đức Liên

A.    Dẫn nhập:

1. Cuối tháng 8 năm 1970 (niên khóa 1970/71) lần đầu tiên trong lịch sử Đại học Việt Nam – Viện Đại Học Sài Gòn (qua trường Đại học Sư Phạm – 221 đại lộ Cộng Hòa, Sài Gòn) khai giảng khóa I Cao Học Giáo Dục – hoàn toàn theo quy chế Mỹ.

2. Khoảng 70 sinh viên, anh em chúng tôi nô nức đến lớp – cho những kiến thức hiện đại hóa của đại học Hoa Kỳ. Từ sau đại chiến thứ II (1939/45) – Hiệp chủng quốc Bắc Mỹ nổi bật hẳn lên mà lãnh đạo khối tự do trên mọi lãnh vực  nhất là giáo dục (The Power of Education). Cụ thể: The TOP 25 Worldwide Universities, 2014 – thì 23 là US (Harvard, Duke, Stanford, Perdue, Columbia …) chỉ có hai đại học của Anh (UK) lọt vào là: U. of Cambridge (thứ 10) và U. of Oxford ( hạng 11).

B. Khóa I Cao Học Giáo Dục (Master of Education) 1970: (Việt Nam Lục Địa từ năm học 2000/01 kêu là Thạc Sĩ = thì ngớ ngẩn lắm – dzẫn dzơ quá !)

1. Đại học Sư Phạm (Faculté de Pédagogie) Saigon có 1 phó khoa trưởng điều hành chương trình hậu đại học (graduate studies): đó là Tiến Sĩ Huỳnh văn Quảng (Ph.D).

Quí vị giáo sư giảng dạy khóa Cao Học đều tốt nghiệp từ đại học Mỹ. Đó là các tiến sĩ (Ph.D) Dương Thiệu Tống (Columbia U.), Huỳnh văn Quảng , Huỳnh Huynh (Ph.D về Xác Xuất Thống Kê), Nguyễn văn Bằng, Đoàn viết Hoạt (Florida)… và vài giáo sư Tiến Sĩ người ngoại quốc: Mỹ, Ấn Độ … giảng dạy bằng Anh Ngữ.

2. Vì theo lề lối Hoa Kỳ nên khóa cao học được chia làm 2 năm rõ rệt. Năm thứ I, tất cả sinh viên (các ngành: Tâm Lý Giáo Dục, Quản Trị Học Đường, Thống Kê, Giáo Dục … ) đều học chung (tronc universel) những môn học tổng quát (15 lớp x 3 credits = 45 credits (tín chỉ)). Sinh viên phải hiện diện ở lớp học 100% (Attendance Presence = được tính điểm/ từng môn học: 10 đến 15% tùy giáo sư. Sinh viên phải ký tên hiện diện ở lớp học qua tờ điểm danh…) Muốn nhập học năm I, sinh viên phải có Giáo sư Tiến Sĩ bảo trợ.

-Phó Khoa Trưởng Huỳnh văn Quảng cố gắng tổ chức những lớp học từ sau 4 giờ chiều trong tuần và cả ngày chủ nhật, ngày lễ … vì sinh viên chúng tôi đều là công chức (giám đốc, nhân viên của Bộ Giáo Dục, giáo sư trung học đệ nhị cấp, chánh sự vụ sở Pháp Chế…

-Nói là học 15 lớp (15 classes) trong năm thứ I (1970/71) nhưng sinh viên đã phải đến lớp trong gần 3 niên khóa (1970/71 – 1971/72 – 1972/73) nghĩa là học xong 1 lớp lại phải chờ 2-3 tháng mới có lớp mới (vì thầy cô vừa tốt nghiệp Ph.D từ Mỹ về - giáo sư còn như “nửa hồn trên mây”). Xin lỗi quí Giáo Sư Tiến Sĩ.

- Đậu xong 15 lớp (mỗi lớp có quiz, test, final exam và report -20 tới 30 trang - và đừng quên là có điểm Attendance Presence)  - sinh viên nhẹ nhỏm vì đã đi được 50% đường cao học. Đậu đủ 45 credits – cũng phong trần lắm ! (nhất là 15 reports = 15 petits memoires).

- Lên năm  thứ II, sinh viên học 3-4 lớp chuyên ngành (Thống Kê Giáo Dục , Anh Văn …) rồi viết luận văn (mémoire) cao học với giáo sư bảo trợ và chờ ngày trình luận văn trước hội đồng giám khảo. Khác với học trình cao học – qui chế Pháp – sinh viên làm việc với giáo sư bảo trợ  - ngay từ năm thứ I (nghĩa là 1 thầy, 1 trò).

3. Từ năm 1967/68, cuộc chiến Việt Nam quá khốc liệt và dã man (Mậu Thân 1968…) vấn đề du học là cấm kỵ. 70 anh em chúng tôi may mắn – đúng hơn là hớn hở đến giảng đường Đại Học Sư Phạm Saigon – học theo học trình hậu đại học Mỹ (Grad. Program) để tiến thân. Vì là khóa đầu tiên (Cao Học) nên thành phần sinh viên rất hùng hậu:

- Là những nhân viên giảng huấn – đang dạy tại đại học. Đó là những cử nhân làm giảng viên (Chargé d’Ensigment = dạy giờ) làm giảng sư (Chargé de Cours = dạy khế ước). Học cao học để tiến thân còn hiên ngang đứng ở lớp học/đại học. Giáo sư đại học (Prof. Doctor) còn thiếu lắm nên Prof. Maitrise cũng tạm được (đó là những năm đầu 1970). Xin xem: Giáo chức thời Việt Nam độc lập (9/3/1945) và VNCH(1954-1975) của GS. Pham Đức Liên….

- Là những công chức cao cấp của Bộ Giáo Dục (là những giáo sư trung học đệ II cấp thượng hạng, chỉ số lương 690+ ngoại hạng) đó là Giám Đốc Nhân Viên, Chánh Sở, Thanh Tra Trung Học…

- Là những giáo sư cử nhân (Prof. Licencié) đang dạy tại các trường trung học đệ II cấp, đang làm chuyên viên ở các nha, sở…

- 70 anh em chúng tôi (tương đương 2 trung đội) dùi mài kinh sử - năm thứ I kéo dài đến 3 niên học. Có học, có thi thì có rớt. Đến năm thứ II chỉ còn được 20 sinh viên đi vào chuyên ngành (4, 5 ngành riêng biệt). Mỗi lớp học chuyên ngành chỉ có 3, 5 sinh viên mà thôi! (Hình như chuyên ngành Anh Văn = Cao Học Giáo Dục về Anh Ngữ của Tiến sĩ Dương Thanh Bình chỉ có 1 sinh viên). Vì nhớ những bài toán, lý hóa – lúc học Tú Tài (1957/58) – của Le Bossé, Georges Eve, Réunion des Professeurs – tôi tiếp tục học lên Thống Kê Giáo Dục với GS Huỳnh Huynh – để trở thành chuyên viên / expert of statistics – nghề của thời đại).

4. Xin nhắc nhở: Vào thời điểm 1970 – giáo sư đại học tại Miền Nam theo tiêu chuẩn quốc tế (worldwide standard) là phải có bằng tiến sĩ (Doctorates Degree). Lúc đó chúng ta chỉ có khoảng 100 vị (trừ Doctor-en-Medicine = MD) trong đó STEM(1) là 25! Chia đều cho 3 viện đại học quốc gia (công lập) Saigon, Huế, Cần Thơ = 33 Ông Nghè cho mỗi viện. 85% nhân viên giảng huấn còn lại là: Cao Học, Cử Nhân, Học Giả (như Vương Hồng Sển, Phan Khoang, Bửu Cầm, Nguyễn Hiến Lê, Lê Ngọc Trụ… = quí vị chưa học đại học một ngày !). Cao cấp nhất là Giáo Sư Thạc Sĩ (Prof. Agrégé = Prof. Post Doc.) thì chỉ Saigon có 8 vị, 3 ở đại học Luật Khoa và 5 cho Y Khoa. Niên khóa 1970/71, VNCH có trên 50,000 sinh viên và 941 nhân viên giảng huấn. Ngay sau đó thì:

- sinh viên tăng nhiều vì Tú Tài 7 điểm (7/20 = 3.5/10 hay 35%)

- nhiều đại học tư xuất hiện: Đại Học Minh Đức (LM Bửu Dưỡng), Đại Học Hòa Hảo (TNS Lê Phước Sang) -1970; Đại Học Cao Đài (LS Nguyễn văn Lộc) – 1971; và nhiều đại học Cộng Đồng (Regina Pacis), khóa đầu tốt nghiệp tháng 5/1972 về Kỹ Thuật và Kinh Thương…

Thế nhưng thầy cô không gia tăng là bao !. Thầy cô đầu tuần dạy ở Saigon, giữa tuần bay xuốngAn Giang (mang y chang tập bài giảng và nhai lại ở đại học Hòa Hảo) rồi cuối tuần bay đi Dalat (vẫn y chang tập cours, lai rai ở giảng đường xứ ngàn hoa). Không có thì giờ nghiên cứu – trong khi : “Teaching to research and research for teaching” . Ấy thế mà du sinh VNCH (STEM (1) only) bắt kịp được đà văn minh, khoa học kỹ thuật của Âu Mỹ (Cao Đắc Vinh/Nguyễn Trãi, Đỗ Y Ngọc/Gia Long…) Báo chí thời đó nói đùa: “Thầy cô đại học là những phi thuyền chữ nghĩa, phi hành gia giáo dục”.

C.    Năm thứ I: Kỷ niệm khó quên “chúng mình ba đứa”:

1.      Sau mỗi môn học (15 cours) của năm thứ I – sinh viên phải thi cuối khóa (final exam = 40% ) . Điểm của Attendance Presence, quiz, test.. = 40% và 30 trang report = 20%)

Lớp Trắc Nghiệm và Đo Lường Khả Năng Học Tập (Measure and Testing)/1971/72 vừa xong – chúng tôi sẵn sàng để thi vào ngày chủ nhật cuối tuần.

2.      Thì  tối thứ năm, anh Thụy và anh Tiếu – chạy đến nhà tôi – “đầy hớn hở” (anh Nguyễn Tường Thụy, chuyên viên Nha Nghiên Cứu Giáo Dục – anh Phạm đình Tiếu, Chargé de Cours tại Đại Học Sư Phạm Saigon). Anh Tiếu: “ Thằng Thụy nó bảo: “Chỉ có thằng Liên mới xong – vì nó đi cours/không thiếu một buổi. Mà tao có đề thi của ông Tống ! – hãy cùng giải trong đêm nay”. Prof. Dương Thiệu Tống tiến thân từ giáo viên tiểu học (Ecole Normale) đến Prof Titulaire (GS thực thụ) trường ĐHSP Saigon. Ông là Ed D/ Columbia U. là cây đa cổ thụ trong giáo dục với biết bao kinh nghiệm nên cẩn thận lắm – nhất là thi cử.

3.      Dựa vào tập ghi chép (notes) của tôi (ngay lúc ông nói chuyện đời, tôi cũng ghi lại) ba anh em giải trong 3 giờ (bài thi 3 giờ, từ 8 tới 11 giờ tối - cặm cụi mà giải). Vội vàng ăn bát cháo gà rồi ai về nhà nấy cho ngày mai – giáo dục VNCH.

4.      Trong phòng giáo sư (ĐHSP Saigon) – có bàn đánh máy stencils và máy quay ronéo. GS Tống quay bài thi rồi vô tình ném ở stencils vào thùng rác. Thầy Tiếu – ngay sau đó – cũng quay ronéo bài thi. Ông bảo: “Liên ơi, tao nghi ngờ - lấy mấy tờ stencils quay lại rồi chạy thẳng đến nhà thằng Thụy vì Measure and Testing nặng về Toán quá!”. Giải xong rồi, tôi vẫn nghi vì thầy Tống có 2-3 bài thi. Có thể ngài sẽ đổi ý vào phút chót hay chăng !. Dù sao ba anh em chúng tôi cũng có dịp  đã ôn cours lần chót.

5.      Sáng chủ nhật (tôi không nhớ ngày tháng nào) vào phòng thi thì quả là đề thi mà 3 anh em đã giải. Toát mồ hôi, tôi lấy lại bình tĩnh và liếc về phía Nguyễn Tường Thụy… Tôi xem lại bài làm và là trong mấy sinh viên nộp bài thi vào phút chót.

6.      Hai tuần sau – sinh viên trở lại giảng đường (thư viện) để GS Tống – trả lại report, bài final exam và điểm của cả khóa học (3 credits). Ngài khen ngợi: “Có những sinh viên đã làm bài thi cuối khóa – more than expect”. Nghe thấy “exceeds expectation” tôi lơ đãng nhìn trời xanh !. Điểm toàn cours, tôi được A+ (A- = 93, 94, 95; A= 96, 97, 98; A+=99, 100). Vì là quy chế Mỹ, MYOB (Mind your own business) – chỉ lúc trình mémoire/ thì hội đồng giám khảo mới công bố: Ưu, Bình, Thứ, Liệt.

7.      GS Tống đã ra người thiên cổ!. GS Phạm Đình Tiếu và GS Nguyễn Tường Thụy , “người nấu cháo gà ngon” cũng đều khuất núi. Chỉ còn lại mình tôi !. Kính lạy quí vị dã về cõi tiên.

Toronto ngày đầu xuân 2017

Prof. Phạm Đức Liên.

 Ghi chú:
       (1) STEM: Science, Technology, Engineering and Math.