Bà Cố
Lâm Quang Khải



Tàu cau, nhớ Cố tâm tình
Vườn xưa hoa mộng, Cố về với con.

Bà Cố ơi, Bà bỏ con đi về với Ông Cố, tiết cuối năm, tết sắp đến năm nào, nay đã gần sáu mươi năm rồi, mà mới hổm nay cái tàu cau gây dậy lại tình bà cháu mình, sáu mươi năm như một sát na; giây phút, Cố lại về với con ,
Đúng là như mộng như huyễn, hén. Cố.
Nhớ tám, mười tuổi hay lúc thúc theo Cố, phụ Cố tưới líp trầu, gàu bằng mo cau, dây trầu bám những cọc cao khoảng hai mét, tát nước dưới mương lên tận ngọn nghe tiếng nước rào rào vui. Các cọc trầu chen lẫn mấy bụi bạc hà phía dưới, trên lá trầu nước chảy xuống đám lá bạc hà, lá đong đưa, từng dòng nước rơi, lá long lanh đọng lại vài giọt tròn, chạy qua chạy lại trên tàu lá, sau đó mới chịu đứng lại. Ánh nắng rọi vào như viên kim cương chiếu sáng, con nhìn say sưa.
Giọt nước này, cây bạc hà kia con theo tận trời Tây, cũng giọt nước long lanh thuở trước. Đôi khi con tự hỏi. Những cây bạc hà và giọt nước long lanh kia. Con nhìn qua kỷ niệm (của mạt na thức ), hay là do tâm ý thức hiện tiền?
Sáng nay chợt về nhà cũ (qua hình chị gởi), thấy bụi bạc hà nay nhảy ra phòng thuốc của ông nội …
Lá bạc hà ơi sao không xanh, đậm, tình như xưa cũ? Giọt nước mương chạy nhảy còn lại những sao trời, viên ngọc nước, thâu về kim cổ. Gom cả hình hài thế giới đại thiên. Hôm qua rồi những tưởng mới hôm nay. Nay qua mốt lại, kết thành cục thôi, cục nào mà sao tựa tim ta, máu này chứa cả mọi thời thiên thu.

Không có Cố và con, lá bạc hà không xanh đậm nữa, Cố ơi,
Líp đất bên kia mương bước qua thanh cầu gỗ. Chiều chiều trước khi vô nhà, Cố hay gom cỏ khô lại, un. Khói của cỏ khô nhè nhẹ bay lên, con nghe đã lắm, hồn lâng lâng tựa khói, bay cao mùi cỏ ấy quyện tận vào lòng.

Qua xứ Canada này, một ngày kia ra cánh đồng rộng, cả chân trời và tim con; chợt nghe mùi un khói, làm nhớ lại mùi khói Cố ngày xưa, lòng ấm lại quê hương liền thấy, hai chữ: đây, đó mất rồi Cố ơi.
Un khói xong, hai ba ngày sau đó, Cố lấy tro đem bỏ vào nhà chứa, thành một đống tro, trên đó Cố bắt một nhịp cầu, để đàn bà hay đàn ông đi tè trên đó, tro ủ nước tiểu. Ban ngày thì như vậy, ban đêm Cố tiểu trong ‘’bô’’, để sáng đem đổ vào đống tro đó. Tro và nước tiểu có mùi nồng nhẹ, không phải mùi gắt gắt hôi hôi. Con khoái lắm, chạy nhảy ngoài vườn, nhưng khi cần, biết “để dành” chạy vào xỉa cái súng nho nhỏ vào đống tro. Giọt nước bắn xuống, xoáy một lỗ nho nhỏ, một chút bụi tro bay lên, xong, đâu vào đấy, cái lỗ nho nhỏ đó, nước tự lắp bằng mặt. Bà Cố biết không, khi qua tận bên Tây này. Khi con trồng cây kiểng, con ‘’cũng rình rình” lấy tro lò sưởi củi của mùa đông, mùa hè làm tro ủ kiểu này đó Cố. Hỗn hợp tro và nước tiểu đó, là phosphor và urê đó mà.
Qua chỗ un về phía sau cây mít, đó là “mương”chuối, Cố trồng nhiều loại cây trái: chuối già, cau, si mon… Con khoái nhất là chuối lá, vị ngọt là lạ, khi ăn thấy nhiều sợi kèm theo, như mặc áo lá vậy.

Chuối chín từ buồng Cố cắt ra từng nải, nải chúi treo trong tủ đựng đồ ăn. Con muốn ăn trái nào, cứ ăn. Riêng Cố hay lựa mấy trái hư hư, héo héo ăn trước, nói để mai sợ nó hư bỏ uổng. Ngày mai, lại ăn héo héo, ngày mốt cũng vậy. Nghe ba con nói lén với má,:”Rốt cuộc, nải chuối bà chỉ ăn toàn là chuối hư không vậy”. Chuối cau ăn không hết, Cố phơi khô, làm chuối khô, mùi chuối khô này,cộng mùi nắng nội, thơm lừng, mùi là lạ và mùi này con đặt tên là mùi chuối khô của Cố và Nội, đó Cố.
Tàu cau nào Cố cho con kéo chơi trời bé nhỏ, tàu cau nào Cố để chuyện đồng quê.

Con và Cố hay đi lượm mấy tàu cau rụng. Cắt cái mo, để làm gàu hoặc để dở cơm vắt. Tước phần lá, chỉ để lại cộng sống lá, rồi phơi khô. Nhiều cây bó lại thành cây chổi tàu cau.
Bà nội con kể lại, có món ngon vật lạ, Cố hay cho con ăn, con hay nhường lại cho Cố. Cố hỏi tại sao? Con nói là con còn sống cả trăm năm nữa, Cố già rồi Cố hãy ăn đi.

Nhớ một lần con dẫn một người bạn lên mộ phần của ông bà Cố, anh nhìn làm sao mà nói tôi thấy có một hình ảnh người đàn bà luôn theo phò hộ anh. Để giải thích hiện tượng này, bình dân gọi là có “ma xó”, dựa vào đó anh bạn “thấy’’. Riêng con có thấy một đoạn trong kinh sách xưa, người đệ tử hỏi thầy mình về sự việc cầu cơ bói. Thầy giải thích là do tâm tạo, chứ thật ra không có một hồn ma hay thần thánh gì cả. Con chấp nhận lời giải thích đó, nhưng không hiểu rõ lắm. Nay nhân cái mo cau và nhớ Cố con chợt thấy rõ sự việc hơn. Vì thương Cố nên tâm con luôn có Cố, chủng tử này hiện hoặc tìm ẩn mà thôi.

Nhớ ngày Cố mất, đám tang của Cố bà con ai cũng nói là Cố và nhà mình có phúc đức, vì lúc đó, phòng phía sau từ đường có để một tượng Phật lớn, mà ông Nội con nhờ người tạc để cúng dường chùa Tịnh Độ Cư Sĩ ở bên cầu Ông Đành. Con cũng nghĩ đây là một nhân duyên và lớn lên con say mê đọc giáo lý của Ngài chăng?

Cố hay nói, cái nhà này, tao nói với thằng Bảy (ông nội con) sau này là phải để lại cho thằng Bi.
Không biết sao lúc đó mà con có một linh ảnh là nhà này sẽ không thuộc về mình.

Nhà và mộ phần nhìn vào hình tướng mà ra, con chỉ trụ vào vô tướng mà thôi. Tướng nhưng vô tướng, vì trụ chỗ này mà con còn mang mãi với thời gian, tận cõi trời này. Như tàu cau, gói phần ân tình và chánh đạo, như chổi kia vậy, con dùng vào việc quét khách bụi trần, đừng để bụi này bám vào làm nhiễu loạn tâm tư.
Như là nhất danh nhất tự do giai tiền định vậy, Trung Đạo Luận, tên Ông Nội, Ông Cố và ông Sơ của con vậy. Và trong muôn vàn vạn pháp môn của chư Phật, con thích nhất là trung đạo luận đó Cố.
Chào… Cố, một chỗ đi của Cố và một chỗ về của con, nhưng mà chẳng chỗ đi về, Cố hén.

3/2/2015