Áng mây
Huỳnh Thị Nhung (Khóa 13)
Má tôi là áng mây
trời,
Mỗi khi nhớ má tôi nhìn mây
trôi ...
Cuối năm khi không gian se lạnh,
mùa xuân đang đến với biết bao nỗi mong chờ
của nhiều người được đoàn viên dưới mái nhà thân
yêu. Giờ thì qua ngưỡng lục thập hoa giáp, những người
như tôi đều mong ước tìm lại ngày ấy đã đâu
còn của thời thơ ấu. Gia đình tôi có 8 anh em đều
được đi học ở trường Tiểu học Lái Thiêu, khi lên
trung học thì 3 đứa đầu được học trường Trịnh Hoài Đức, 5
đứa sau vì trường Phan văn Hùm đã được xây dựng gần nhà
nên 5 đứa em sau tôi đi học gần nhà. Nhà tôi
nằm trên đường Nguyễn Trãi là một ngôi
nhà xưa rất đẹp trên tuyến đường, có nguồn
gốc của gia đình ông Cả Kiết là hương cả trong
làng Tân Thới Lái Thiêu, ông còn là chủ
tiệm Đỗ Kim ở đường Đỗ hữu Vị chợ Lái Thiêu.
Căn nhà ba gian với tám cây cột gõ đen mun, mái
ngói mát rượi, mà hồi còn nhỏ tôi cảm thấy
nhà mình quá lớn như một ngôi chùa với
liễn đối sơn son phết vàng trên cột nhà,
trang thờ có những hàng lam chạm khắc hoa văn chim hoa, sân sau
nhà thật là rộng có giếng nước lúc nào nước cũng
trong vắt dù nền vách giếng có nhiều rong rêu.
Nhà hàng xóm đều là nông dân đất rộng
nhà vách đất, cạnh bên nhà của ông Út có chuồng
bò cạnh bên là một cây rơm cao, trồng toàn
cây ăn trái, hàng rào là những cây điều sân
nhà ông Út cũng là nơi diễn ra nhiều trận
thư hùng của mấy đứa con trai trong xóm. Ĺc còn nhỏ ngoài
giờ đi học lúc nào chúng tôi cũng lấm lem đất cát,
quần mặc ở nhà đứa nào cũng có miếng vá ở dưới mông.
Quần bị rách do tuột cầu tuột đu dây
chơi bập bênh trong sân trường Ấp Trưởng, là
nơi Sư đoàn Bạch Mã Đại Hàn xây dựng khu trò chơi trong sân
trường. Chúng tôi lớn lên cùng các bạn hàng xóm
đồng trang lứa phá phách đủ trò, và lúc nào Anh Hai
tôi cũng là đầu tàu bày đặt đủ kiểu. Ba tôi
thường phạt anh quỳ ngay cây cột gõ, mỗi khi có
bạn tìm anh thì chúng tôi đều trả lời cùng một
ý: "Ảnh bận lau cột gõ rồi". Càng bị phạt
nhiều, anh càng nghĩ ra lắm chiêu, cả một đám bạn
hàng xóm cùng nhau hưởng ứng, kể̃ cả người lớn cũng đồng
tình cho chúng tôi chùm nhum mà chơi giỡn bày trò.
Nhớ lại khi xưa, nhà tôi lúc
nào cũng nồng ấm giọng nói tiếng cười từ sáng
đến tối, dù có cãi nhau thì chỉ một lúc lại tụm năm tụm
ba .Lúc má bệnh không đi đâu nữa, má kể lại,
chỉ điểm danh được các con giờ ăn giờ ngủ, ngoài giờ đi học
đứa chạy đầu trên đứa đi xóm dưới, mà về đến
nhà má tôi đều biết đứa nào đi đông đi tây.
Nhà tôi mở tiệm tạp hóa má tôi vừa bán hàng vừa
chăn đám con. Thường buổi trưa má tôi hay bắt đứa lớn
giữ đứa nhỏ và căn dặn đi có đi chơi thì đi nhà Bà Cố, nhà
Bà Ba, Bà Tư, nhà hàng xóm và chúng tôi thường lội ùm
xuống vàm sông Sở Cải. Bà Cố tôi cầm
cái roi mây vừa nhịp vừa la om sòm nhưng không có đứa
nào bị ăn roi hết. Hồi nhỏ cứ thắc mắc sao má biết
mình đi đâu, làm gi , lớn chút thì hiểu má tôi bán
hàng vừa hỏi hàng xóm có thấy mấy đứa nhỏ con tui đi
đâu không. Hàng xóm không có bao nhiêu người
nên ai cũng trả lời má như điệp viên chỉ điểm
không công. Má tôi rất giỏi việc xử án hơn
cả Bao Công, tí xíu là có đứa mét
má ơi, má hỡi…Trong túi áo bà ba của má
lúc nào cũng có sẵn chai dầu Nhị Thiên Đường.
Con vấp té đứt tay là xức dầu liền, cho má hun một
cái là hết đau nhe … Má tôi có tài
báo động “Ba về”, và vì sợ ba chúng tôi giả bộ ngoan
hiền khi có ba ở nhà. Ngày nào trời mưa không đi đâu
được thì anh em tôi xúm nhau hát cải lương, lấy khăn
làm áo cổ trang, lấy mền mùng làm phông
màn, mũ mão đao kiếm thì tự chế, cây chổi lông
gà dành hát Hồ Quảng; cũng có lon chảo khua chiêng
gióng trống. Chúng tôi thuộc lòng các
đoạn cải lương mà chúng tôi thích do những nghệ
sĩ như Thanh Nga, Hùng Cường, Út trà Ôn, Thanh
Sang, Út bạch Lan, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu và nhiều nhiều
nữa diễn. Tuồng tích quanh đi quẩn lại chỉ biết có bấy nhiêu:
Lan và Điệp, Con gái chị Hằng, Tướng cướp Bạch Hải Đường, Tiếng
hạc trong trăng, Tình Chú Thoòng , Đắc Kỷ ho ga. Tân nhạc thì
cũng chung chung những bài phổ biến thời đó đa số là
nhạc Bolero, nhạc của nhạc sĩ Nhật Trường, Hùng Cường Mai lệ Huyền….
nhiêu đó cũng đủ làm má điếc tai.
Lớn hơn khi học trung học, Anh Hai tôi
theo mấy ông họa sĩ vẽ phông tuồng tích các
đoàn cải lương về diễn ở rạp hát cũ là rạp Tân
Lạc bên phía cầu Đúc Lái Thiêu đi Bình Dương, rạp
Phương Lạc là rạp hát mới nằm phía Bình Dương về Sài gòn.
Từ đó má nói nó có hoa tay, lúc nào
anh cũng vẽ vẽ. Mỗi chiều khi nghe chiếc loa cũ kỹ ra rả rè rè
tiếng hát của cô đào Lệ Thủy ở rạp hát Tân Lạc
với bài hát Cô hàng chè tươi. Rạp nầy thường
chiếu phim Ấn Độ, chiếu phim Tây du Ký. Anh em tôi thường
đi coi cọp nhờ có Dì Hai gác cửa rạp cho vô.
Lúc đó Anh Hai kể công do anh xin Dì Hai cho một đám em
vào xem, nhưng thật ra Dì Hai đẹp người da dẻ hồng hào
mập mạp là bạn nối khố của má tôi từ hồi
kháng chiến chống Tây. Có lần đoàn hát
Thanh Hương Hùng Minh về diễn một tuồng cải lương võ hiệp,
nghệ sĩ Hùng Minh bay vèo vèo giơ tay chưởng phát
ra lửa xẹt xẹt… điện làm phỏng tay, thế là NS Hùng
Minh được ra ngoài sớm ăn cháo gà. Anh em tôi
chạy ra đòi xem bàn tay bàn tay bị phỏng, nghệ sĩ Hùng
Minh xòe ra liền (hồi đó làm gì có "fan
cuồng"). Còn nghệ sĩ Lệ Thủy, Diệu Hiền, Thanh Hương lúc nào
cũng sẵn sàng vui cười với đám con nít bu quanh nhìn
mặt .
Mê văn nghê,̣ Anh Hai ôm đàn
ghi ta đi khắp xóm. Anh dàn dựng cho cả xóm hát tuồng cải
lương, có đêm diễn ở sân khấu là một
ngôi mả đá ong thật cao to. Các anh chị hàng xóm có giọng
ca hát cải lương cũng rất ngọt ngào. Sau nầy có Chị
Cao Thị Thắng thành danh nghệ sĩ. Ba tôi sợ anh học dốt
nên cứ vắng anh là ba bắt anh em chúng tôi tìm bắt anh
về tiếp tục quỳ lau cột gõ cho ba.
Anh Hai còn lấn sân qua điện
ảnh. Anh làm một cái thùng giấy carton bằng thùng
đựng sữa bò Con Chim hiệu Nestle ngày trước (thùng
đựng 48 hộp sữa), trong thùng treo một cái bóng đèn
100 wat đã rút ra hết dây tóc bên trong
đựng nước, chỉ với một cái kiếng nhỏ rọi mặt của má. Anh lấy
ánh sáng mặt trời hội tụ chiếu qua bóng đèn phát
những đoạn phim Ấn độ, Tây Du Ký; với cái drap giường
trắng căng trên tường. Nhà tôi trở thành một cái
rạp chiếu bóng mini, dù chỉ coi đi coi lại có một đoạn
phim mà anh em chúng tôi thì cười nắc nẻ vui hết biết.
Chúng tôi còn có một
kho đồ chơi chứa trong cái hầm chống mọt chê sau nhà.
Đó là mấy bộ điện đàm bằng lon sữa bò đứa nhà
trước la làng đứa nhà sau úp vô tai nghe; xúm
nhau đồng la: Alô alô dừa khô lên giá, ai
có má đem đổi dừa khô. Vậy mà má tôi
vui lắm khi chúng tôi nghêu ngao hát xướng làm trò ...
Với hai cái ống lon nối với sợi dây là chúng tôi
đã lóc cóc đi cà khiêu té lên
té xuống. Rồi nào là diều giấy, mắt kiếng mặt
nạ bằng giấy bồi... Đồ hàng của tôi thì đủ loại gồm nồi
niêu lớn nhỏ, chén tô dĩa bể miệng, cái gối bằng
sành để nằm hút thuốc Lào; chén chung, hủ to hủ
nhỏ, mấy con cá treo tường để trồng trầu bà … thôi thì
nhiều lủ khủ. Nhà ở gần lò gốm, đồ phế thải ra, chủ
không bán được thì đổ đống sát cạnh ranh nhà,
chúng tôi lượm chơi thoải mái (giờ mà còn
ố la la … đồ cổ vô giá). Hồi đó nồi niêu chỉ bằng
đất nung và dễ vỡ chứ không được bằng nhôm thiếc như bây
giờ. Phía sau nhà tôi là lò gốm Liên
Hiệp Thành do nhiều người góp tiền thành lập gọi là
công xi, Ông tám em của ngoại tôi có một
phần hùn trong công xi. Ông sống chung với người Hoa từ
nhỏ, người khắc khổ, nụ cười hiền hậu. Ông thường vác cái khạp
đi lên dốc lò nung hay từ lò nung xuống lưng đã còng
… Ông thương anh em chúng tôi lắm, lúc nào
cần đất sét là trèo qua hàng rào chất bằng những
cái khạp cái lu, chạy qua kiếm ông xin một đất sét
cục lớn tha hồ sáng tạo một bầy thú. Ông còn móc dây
lưng quần gói đựng tiền cắc cho chúng tôi mua kẹo
ú ngậm hoài không hết, vừa ngậm vừa phình
má như con khỉ. Anh tôi hay nắn những con thú, con trâu,
con bò... nhìn sinh động lắm. Mấy con cờ tướng cũng vò bằng
đất sét…. Sân sau nhà tôi có một cây
ổi thơm lừng, lúc nào cũng có trái chua trái
chín, chúng tôi thường leo lên vắt vẻo trên
cây… Nhớ lại thấy anh em tôi quậy thiệt, vậy mà má
tôi cưng hết biết, gia tài của má tôi là
một bầy con phá phách.
Thường thì để chuẩn bị giỗ
hay Tết, má tôi bận rộn vừa lo buôn bán, còn
nuôi vài con gà, dọn dẹp nhà cửa rồi làm đủ
loại nào mứt dừa mứt gừng... Má tôi nấu ăn rất ngon
và làm rất nhanh nhẹn. Má cắt may cho anh em chúng tôi
mỗi đứa một bộ quần áo mới kiểu và vải giống
y nhau. Tám anh em tôi hay giỡn với má: bận đồ giống nhau vầy giống
con Bà Phước (Công Giáo). Ba tôi thì năm nào Tết
đến cũng tự pha sơn, sơn lại cửa chính mà những cái cửa hồi
xưa không có khóa, chỉ cài bằng cây song hồng. Màu
sơn thì lúc nào những lá sách bên trong cũng là
màu xanh lá nhạt bên ngoài xanh lá đậm.
Tết đến là nhà tôi rất đẹp, sáng trưng nhất
xóm. Ngày Tết nhà tôi không thơm
hương trầm như nhà của nội tôi nằm trên dốc Cầu ông
Đành, mà thơm mùi hoa vạn thọ. Má tôi chưng
nhiều vạn thọ do các cậu dì của má tự trồng rồi gánh
ra tặng cho má chưng Tết .
Ba ngày Tết ăn chơi chúng tôi đánh
bài 3 lá, cờ cá ngựa, lắc bầu cua. Ban ngày chơi
chưa đủ, tối đến chúng tôi đốt đèn cầy hoặc lén lấy
cây đèn dầu hột vịt chun dưới bộ divan chơi tiếp, khi
nào buồn ngủ quá thì mới trèo lên ngủ
.
Anh em chúng tôi sợ ba tôi
lắm, dù ông rất ít la rầy. Hồi đó chúng
tôi hay nói ba tôi là một cái bóng
mát che cuộc đời chúng tôi tối om om. Ông cứ sợ
đứa mê văn nghệ văn gừng, đứa mê đắm tiểu thuyết
ủy mỵ, đứa mê coi tivi không chịu học hành. Có những
lần mê chơi quên giờ giấc ba tôi đi dạy học về; vừa nghe
má kêu “Ba về”, chúng tôi vội vã cuốn hết
mền mùng đạo cụ kiếm gỗ, mũ mão vua quan bằng mấy tờ giấy bồi
nhét hết xuống dưới cái divan to đùng. Nền nhà
tôi lót gạch bông, chúng tôi đi ra vô
hoài dơ lắm, nhưng sạch nhất vẫn là chỗ gầm divan to để
ngủ là sạch bong, nơi thì thầm to nhỏ và tiếp tục chơi
kể chuyện ma cỏ của anh tôi.
Chủ nhật chúng tôi được ăn ngon vì
có ba ở nhà, nhưng đứa nào cũng ngại ông già
Ba tri khó tính, thường chúng tôi trốn má
ù chạy xuống nhà bà cố tôi ở đầu cầu Sở Cải, lội
mương bắt cua, bắt còng, bắt cá lòng tong. Cậu Năm,
Dì Tư Cậu Út... cũng bằng tuổi nên cả đám con
nít “quậy hết ga”. Bà Cố tôi lúc nào cũng
cầm cây roi tre dài nhịp nhịp: không đứa nào được
xuống sông nhe, vậy mà cả đám đều biết lội sông,
bơi ếch bơi chó như nhái ….
Những năm học trường Trịnh Hoài Đức, anh
tôi đã là thanh niên. Má tôi yêu thương anh bao
bọc anh không từ chối bất cứ điều gì. Anh
muốn mua máy ảnh chụp hình, mua một dàn nhạc lập
thành đội văn nghệ. Má nuôi dạy anh tôi đức tính
gia trưởng để sau nầy kế tục ba tôi là trưởng
tộc. Anh tôi được thụ hưởng tất cả tình thương yêu
của má, cho đến ngày anh có gia đình riêng thì tình thương
yêu không còn dành cho em út nữa.
Thời thơ ấu tươi đẹp qua đi, tôi
nhớ má tôi cơ cực nuôi đủ 8 đứa con với một
ông chồng khó tính, vừa lo buôn bán vừa lo việc
nhà cơm nước cho một đàn con. Má tôi dạy con tự lực,
biết làm việc nhà lặt vặt. Má bắt chúng tôi phụ
má mua bán đi chợ mua hàng rồi giao hàng, đứa nào siêng
má cho ăn chè. Bà Ba Campuchia bán chè rất ngon thưởng cho,
làm nhiều thưởng nhiều làm ít thì ăn chè má nấu.
Má tôi không được đi học biết chữ do học lớp bình
dân. Ngày sinh mỗi đứa má tôi đều nấu
chè cho ăn. Chúng tôi không biết má cúng van vái
Mẹ sanh Mẹ độ cho con cái khỏe mạnh không đau yếu.
Má tôi chưa hề than buồn - than khổ bao giờ vì nuôi
con. Cực thân má chịu được, nhưng má không thể gánh
hết nỗi đau tinh thần các con dồn cho má gánh
gồng, má tôi khóc. Bạn bè buôn bán cùng
thời với má tôi ở chợ Lái Thiêu ai cũng thân
với má, người nào cũng con đông, giỏi giang và còn
rất đẹp người… Dì Hỷ bán gạo, bà chủ tiệm Đức Thành
kêu má tôi là “Bà An nàm nắn”. Tôi
hỏi hoài bà mới nói nghĩa là người Việt bán
quán. Dì Năm Thành, Dì Sáu Guốc,
Dì Hai Vinh, Bác Tư Đại Hải, Bác Tư Dân Sanh…
là bạn của má tôi. Bây giờ gặp tôi, Bác
Tư Đại Hải tâm sự: "Má con với mấy bác mấy dì
hồi trước buôn bán làm ăn chơi hụi hè chung với
nhau mấy chục năm chưa bao giờ mích lòng, chưa bao giờ gian
dối, giờ mua bán lộn xộn khó tin người lắm".
Má tôi bệnh mất sớm, chưa được
có một ngày thảnh thơi hạnh phúc… Các em tôi
khóc: "Các con chưa làm gì đền ơn cho má
mà má vẫn thương con…" Trước đây má tôi
thường đi chùa đêm đọc kinh, làm phước chôn người không
thân thích, cứu giúp người bần cùng khốn khổ.
Và những ngày sau cuối tôi mới ngộ ra má tôi
chấp nhận nghiệp của mình, nuôi con trả nghiệp.
Nếu thật sự có thuyết luân hồi, má tôi
đã trả xong nghiệp mình vay từ muôn kiếp trước.
Có ba đứa con học trường Trịnh hoài Đức,
má tôi vui lắm vì cũng phải học giỏi mới thi đậu vào
trường. Thời đi học anh em tôi cũng có những tài lẻ.
Anh tôi vẽ báo tường viết văn, quay roneo báo Trắng với
anh Dương tiểu Nam. Tôi cũng mơ làm văn sĩ, làm thơ lục
bát. Thằng thứ tư chơi đàn guitar cho ban nhạc nhà trường,
đá banh góc trái…. Má tôi hay nói
vui: "Hổng biết lớn lên làm nên trò trống
gì cho má nhờ … Mấy em nhỏ học trường Phan văn Hùm
gần nhà… Điều má tôi ao ước nuôi các con
ăn học thành tài không thành như ý nguyện.
Những ngày cuối cùng tôi an ủi má: "Má
cũng còn được gọi là Cô Ba ( vợ ông Thầy giáo)".
Má tôi, ánh sao Bắc đẩu vẫn
mãi soi đường cho tôi. Khi đau ốm bệnh tật tôi vẫn còn
hay kêu “Má ơi” … Má mất rồi nhưng má vẫn thương
yêu anh em chúng tôi… Anh Hai tôi cũng theo má ra đi.
Anh như biết trước mệnh khổ nên sau một
năm ngày mất, tro cốt anh được thủy táng xuống sông
gần Cầu Sắt xe lửa Phú Long. Nhiều người còn nhớ
đến anh tính hào hoa nhưng bước đi và cuộc sống
của anh chan hòa nước mắt của má tôi.
Áng mây bay qua, bay mãi vào
hư không, như dòng đời đã trôi đi… Má tôi
vẫn là ánh sao trên bầu trời, dịu dàng soi rọi
quanh tôi, dù tôi vẫn nguyện cầu má sớm siêu
thoát nhưng tôi vẫn hay mơ còn có má yêu
thương…