Ai về quê cũ cho tôi
nhắn
Phong Thu
Mỗi lần về Việt Nam thăm gia đình, chị tôi, các
cháu và bạn bè thường rủ tôi đi ăn
bánh bèo bì Mỹ Liên. Và như một
thói quen hay một nỗi nhớ xa xôi với những kỷ niệm gần gủi
thân thương, tôi chưa bao giờ từ chối.
Người đầu tiên chế biến món bánh bèo
bình dân thành món ăn độc đáo
là bà Nguyễn Thị Kiên, ở An Thạnh, Búng.
Bánh bèo bì Mỹ Liên ở chợ Búng
đã truyền ba đời và nổi tiếng trên một trăm năm,
trở thành món ăn đặc sản của tỉnh Bình Dương.
Khách phương xa đến thăm viếng vườn trái cây
Bình Nhâm, Cầu Ngang, Búng thường ghé
quán bánh bèo bì Mỹ Liên để thưởng
thức món ăn mang hương vị đậm đà của tỉnh Bình
Dương.
Nói đến Chợ Búng Lái Thiêu, chúng ta
cần biết qua vùng đất nầy. Chợ Búng-Lái
Thiêu là một trong những ngôi chợ xây dựng
lâu đời, sầm uất nhất của tỉnh Bình Dương. Lái
Thiêu gần Sài Gòn, Biên Hòa, lại
là giao điểm của giao thông đường thủy và đường bộ
nên người Hoa và người Việt đến đây lập nghiệp rất
sớm. Ngành thương mại, quán bán thực phẩm,
quán ăn đã phát triển nhộn nhịp. Những ngày
cận Tết, các ghe cá từ U Minh, tỉnh Rạch Giá,
và ghe thuyền miền Tây, An Giang, Hậu Giang, đến
bán cá, bán mắm, bán gạo, nếp và
phân phối cho các chợ xung quanh và chợ Bình
Dương. Sau đó, các thương thuyền mua đồ gốm, chén
bát, lu hủ, bàn ghế chở về Miền Tây bán. Chợ
Lái Thiêu còn có trung tâm buôn
bán trái cây, có nhiều quán ăn nổi
tiếng được lưu truyền lâu đời và được nhiều người ưa
chuộng. Những năm gần đây, khi Việt Nam mở cửa làm ăn
buôn bán với nước ngoài, quán tiệm cũng
phát triển theo cấp số nhân và nhiều người
dân Bình Dương, Búng-Lái Thiêu cũng
biết chế biến nhiều món ăn khác để phục vụ cho
khách du lịch sành điệu ăn chơi, nhậu nhẹt.
Khi tôi còn ở Việt Nam, mỗi mùa trái
cây ở cầu Ngang, Búng, Lái Thiêu, tôi
và bạn bè rủ nhau đi chơi vườn, ăn trái cây
hái từ trên cây xuống. Mùa trái
cây bắt đầu từ Mùng 5 tháng 5 Âm Lịch. Thời
gian đó cũng là mùa học sinh nghỉ hè. Cầu
Ngang bắt đầu đông khách và nhà vườn cũng
kiếm được bộn tiền từ việc bán thức ăn, nước giải khát,
trái cây. Lũ học trò như chúng tôi
cũng mê đi chơi trong vườn trái cây ở Cầu Ngang, vừa
ăn trái cây đủ loại, vừa dạo chơi thơ thẩn và nghe
tiếng ve kêu rộn rã trong vòm lá trên
đầu. Thú vị nhất là buổi trưa la cà tạt vào
quán Mỹ Liên làm một dĩa bánh bèo
bì, nhâm nhi mấy cái nem chay chua và nem
thịt nướng. Khi bạn đã đến đây và ăn một diã
bánh bèo bì, bạn sẽ có cảm giác
thèm và nhớ hương vị béo ngậy đọng lại trên
đầu lưỡi của dĩa bánh bèo. Có người nói
rằng bánh bèo chỗ nào cũng như nhau, có
gì mà phải so sánh, chạy lung tung tới Búng
để mua ăn. Như nhiều người bàn tán, bánh
bèo Mỹ Liên có nét đặc biệt làm
khách phương xa ăn xong nhớ mãi. Cái bánh
làm bằng bột gạo trắng tinh, tròn trỉnh, dai dai,
có hành lá xào với mở, đậu xanh vàng
ngậy, những cọng bì trộn thính thơm thơm, đậu phụng
giã nhỏ, có các loại rau thơm cắt nhuyễn phủ
lên trên và chén nước mắm ngọt ngọt, chua
chua nổi lên trên mặt những miếng ớt, tỏi bầm nhỏ, những
cọng cà rốt và cũ cải trắng cắt thật khéo. Mỗi lần
ăn bánh bèo Mỹ Liên, tôi chan nước mắm nhiều
đến muốn ngập lụt cái diã bánh bèo.
Và mỗi khi tôi nhìn người chủ quán sắp
bánh bèo ra diã là nước miếng tôi
muốn ứa ra.
Lúc còn học tiểu học, tôi mơ mình mau lớn
một chút để tự đạp xe đạp đến Búng ăn bánh
bèo cho đã cái bụng. Mùa hè cuối năm
lớp Năm, tôi đã thực hiện ước mơ đó. Tôi
không còn ăn quà vặt và mua đồ chơi ở
cái chợ Lồng ở Thủ Dầu Một. Dù tôi mê đọc
sách hơn cả ăn quà sáng, nhưng trong một tuần lễ,
tôi cũng không đi mua sách của bà Mười
Ú bên bên vệ đường gần tiệm vàng Nhựt Hưng
mà để dành tiền trong con heo đất để chu du một chuyến
Cầu Ngang. Tôi rủ rê một đám “âm binh” gồm mấy
đứa bạn học chung lớp, phá phách, trèo cây
giỏi số một để có cơ hội ăn trái cây nhiều nhất
và có những cuộc chơi ngoài trời ngoạn mục.
Mùa hè, là mùa của lủ học trò tha hồ
rong chơi, nghịch ngợm. Chúng tôi thảnh thơi bơi lội, thả
diều, chơi u mọi, bắt dế, đá banh, bán
quán…Chúng tôi lặn lội đạp xe kót
két, cọc cạch, đèo nhau gần một tiếng đồng hồ, mồ
hôi chảy ròng ròng. Cả đám âm binh, ồn
ào như cái chợ trời, tha hồ ngồi xổm trên mấy
cái ghế đòn thấp sát đất được kê dọc trong
cái quán Mỹ Liên nhai ngấu nghiến miếng bánh
bèo thơm phức. Vì quán quá đông
khách không có chỗ ngồi, nên nhiều đứa phải
phải bưng diã bánh ra ngồi chồm hổm ngoài
hiên. Có đứa húp nước mắm rồn rột và
có đứa liếm hết sạch cái diã không
còn chừa một tí gì nhưng vẫn còn liếm
mép. Ăn xong một diã bánh, ních thêm
mấy cái nem chua và uống một ly nước dừa là no
cành hông. Chúng tôi thoả mãn
kéo nhau đạp xe vòng vòng trong vườn trái
cây và xế chiều trở về thị xã. Cả đám con
nít háo ăn, nghịch ngợm nghĩ đó là những
ngày thú vị nhất của tuổi hoa niên. Chúng
tôi tha hồ tán hưu, tán vượn về chuyện đi ăn
bánh bèo và còn được tặng trái
cây không lấy tiền làm mấy đứa khác nghe xong
phát thèm, ganh tị và ao ước được một lần
lén cha, lén mẹ đi chu du như chuyện “Dế Mèn
Phiêu Lưu Ký” của nhà văn Tô Hoài.
Thật ra, lủ âm binh vừa mua trái cây, vừa canh chừng
chủ cho mấy tên ma lanh leo trèo, chôm chỉa
thêm cho đỡ tốn tiền. Thế nhưng, các bác,
các cô chú miệt vườn hiền lành không
ra lối, không chửi bới như những người kẻ chợ. Họ thấy đám
lâu la mặt mày sáng sủa nhưng túi
không tiền nên cũng muốn vừa bán vừa cho. Đó
là thời kỳ cuối thập niên 60 đầu 70, khi chiến tranh
còn ác liệt, con người còn mơ ước tìm sự
bình an và xem mạng sống của con người cao qúy hơn
tiền bạc, của cải, vật chất. Họ nghĩ bom đạn có thể sẽ
tàn phá tất cả trong một tích tắc thì những
chùm chôm chôm, măng cụt, dâu da…còn
có nghĩa gì đâu. Cái nhân hậu, hiền
hoà, chân chất đó cũng giống như những giọt mưa hạ
rơi trong những mảnh vườn cây sum xuê quả ngọt quê
tôi. Cái tình người mang mang trong dạ như chất
chứa tất cả sự quê mùa, mộc mạc, đơn giản, rộng lượng của
trái tim người Bình Dương sống bao đời trong nương rẫy,
ruộng vườn.
Thế nhưng ngày nay, cái nhân hậu, ấm áp
tình người nơi đó có còn không
tôi không biết được. Một lần về Việt Nam, xe chạy qua Cầu
Ngang, nhà thơ họ Lê, bạn thân của tôi
nói với tôi rằng “trái cây bây giờ
không còn như ngày xưa đâu bạn. Những người
chủ vườn thấy có khách phương xa đến, họ phải chạy ra chợ
mua trái cây về bán lại với giá cắt cổ”.
Xã hội nào, con người đó. Đã xa lắm rồi
thời gian tuổi vàng, tuổi ngọc, tuổi hoa niên êm
đềm, ấp áp tình người.
Khi tôi vào Trung Học, tôi đã về Sài
Gòn sống trong khu nội trú trường QGNT. Tôi
giã từ bạn bè với những ngày rong chơi thơ thẩn,
đầy thú vị. Tôi không còn có dịp trở
lại quán bà Kiên ăn bánh bèo
bì vì đường sá bị đắp mô, gài
mìn rất nguy hiểm. Sau năm 1975, một vài lần tôi
ghé ngang ăn bánh bèo Mỹ Liên, nhưng
không cảm thấy mê ăn như thời còn bé.
Có thể vắng bạn hiền món ăn không còn
thú vị háo hức như xưa chăng? Mỗi lần đến đây,
tôi lại có cảm giác buồn khi nhớ từng khuôn
mặt của từng đứa bạn tóc mây chưa chấm ngang vai đã
bị cuốn đi trong cuộc chiến khốc liệt. Có đứa đã chết
trong bom đạn, đứa lưu lạc, đứa thì cuộc đời nổi trôi như
dề lục bình trên con sông Lái Thiêu,
có đứa bị đạn pháo kích của cộng sản tàn
tật suốt đời. Tôi rất ít ghé quán Mỹ
Liên để ngồi hồi tưởng lại kỷ niệm học trò.
Rồi tôi đi xa thật xa, cuối chân mây của bên
kia bờ Thái Bình Dương. Sau 12 năm rời xa quê
hương, trong dịp Tết Nguyên Đán năm 2001, tôi trở về
thăm nhà. Người rủ rê tôi đi ăn bánh
bèo Mỹ Liên là B.S Bạch Yến, một người chị, người
bạn lâu đời của tôi. Con người nầy thu hút tôi
kỳ lạ bởi sự dịu dàng, thân ái, nhân hậu, tốt
bụng và ngay thẳng.
Ngày Mùng 4 Tết, thay vì đi ăn nhà
hàng, ăn bánh tét, bánh ít, dưa hấu,
bánh tráng, dưa chua với thịt kho Tàu, B.S Bạch
Yến lại rủ tôi đi ăn bánh bèo bì Mỹ
Liên. Tôi vui vẻ nhận lời ngay. Cháu Trung, con rễ
chị lấy chiếc xe hơi chở chúng tôi đi. Chợ Búng giờ
đây đã thay đổi hẳn. Hai bên là những
dãy phố buôn bán sầm uất. Phố xá mọc
lên san sát, có nhiều nhà cao tầng đã
xoá dần những cảnh sắc thiên nhiên mà
tôi yêu thích. Bên ngoài quán,
xe hơi đậu đầy, nhưng người phục vụ trong quán đã hướng
dẫn cho khách có chỗ đậu xe cẩn thận. Ngôi
quán nhỏ bây giờ là một căn nhà lầu 3 tầng,
khang trang. Tầng trên cùng dành cho khách
quý, cán bộ. Nơi đây có ban công,
và gió mát lùa vào mát rượi.
B.S Bạch Yến gọi người chủ quán là Cô Năm.
Tôi không biết cô Năm là con hay cháu
bà Nguyễn Thị Kiên. Cô Năm mặc cái áo
bà ba trắng, tóc uốn cao, người đẩy đà. Cô
Năm thấy B.S Bạch Yến thì tay bắt mặt mừng. Họ quen nhau từ hồi
nảo hồi nao nên câu chuyện trao đổi đã nổ như bắp
rang. Chúng tôi được ngồi cái bàn gần ban
công, bên cạnh là một cây hoa mai cao lớn được
trồng trong một cái chậu sành. Bây giờ là
vào dịp Tết nên hoa mai nở vàng rực. Những
cánh mai mềm mại rung rinh trong gió. Cô Năm sai
người bồi bàn dọn ra cho chúng tôi bốn diã
bánh bèo bì còn nóng hổi. Trên
mỗi diã có thêm 4 miếng nem thịt màu đỏ
hồng. Tôi cắn nhẹ một miếng, vị giác của tôi bị
kích thích bởi hương vị chua chua, ngọt ngọt và
mùi thơm tỏi, ớt, lá dông khiến tôi
thèm ăn hơn. Lâu lắm rồi tôi không ăn
bánh bèo bì Mỹ Liên và lúc nầy
tôi cảm thấy đói cồn cào nên ăn một
lúc hết một diã. B.S Bạch Yến còn gọi thêm
một diã nem nướng, chị gắp vào diã tôi
và nói rằng ăn đi để về Mỹ không có loại nem
nầy để ăn. Thật vậy, ở Mỹ có nhiều quán tiệm Việt Nam,
nhưng chưa có nơi nào bán bánh bèo
nóng hổi, và những miếng nem chua và nem nướng
ngon như ở quán Mỹ Liên. Tôi ăn xong, còn mua
thêm mấy chục cái nem chua đem về cho gia đình.
Tôi muốn mua bánh bèo bỏ lên xe đem về nhưng
B.S Bạch Yến và các cháu cười nói rằng đem
về là hết ngon. Còn cô Năm thì nói
“hể ai thèm thì tự động mò tới quán của
cô”.
Khi chúng tôi ra về, cô Năm còn tặng cho mỗi
người một bịch bánh hột điều. Tôi đem nem, đem bánh
về khoe các cháu và chị tôi làm ai
cũng bò ra cười. Ai đời Tết mà đòi đi ăn
bánh bèo và còn khoe như được tặng
vàng. Đó là món quà Tết Nguyên
Đán mà tôi được B.S Bạch Yến lì xì
vào Mùng 4 Tết năm 2001.
Rồi năm 2008, tôi có dịp trở về Việt Nam lần thứ 2.
Cùng đi với tôi có anh Vinh, người bạn cùng
học chung trường QGNT, anh Phát bạn của anh Vinh đang sống ở
Sài Gòn, cháu Thạch, nhà thơ họ Lê.
Tôi lại bô bô khoe khoang, quảng cáo với
các bạn tôi về món bánh bèo bì
Mỹ Liên tuyệt cú mèo. Tôi nghĩ đó
là đặc sản đặc biệt của miệt Bình Dương, của người
Bình Dương. Tôi không dám khoe trái
cây Bình Dương nữa vì ai cũng biết thời kỳ
vàng son của nó đã khép lại. Và
mùa nầy gần Noel, nhà vườn làm gì có
trái cây để khoe. Khi xe chúng tôi chạy ngang
qua chợ Búng, cháu Thạch dừng xe lại quán
bánh bèo Mỹ Liên. Tôi lại được dịp thửởng
thức món bánh bèo với nem chua, nem nướng.
Món ăn dân giả nhưng gợi lại cho tôi biết bao kỷ
niệm về vùng đất, con người mà tôi đã từng
đến và đi. Nhà thơ họ Lê chắc lưỡi khen ngon,
còn anh Vinh và anh Phát thì nói
danh bất hư truyền. Khi ra về, anh Vinh còn mua thêm mấy
chục cái nem đem về tặng vợ.
Chiều xuống nhanh, gió mang hơi nóng làm
rát da người. Con đường tráng nhựa hình như bốc
khói. Hơi nóng phả vào không gian sự oi bức
làm chúng tôi đổ mồ hôi. Trên những con
rạch tôi đi qua, cây cối hình như đã chết dần
mòn. Vườn cây Búng, Bình Nhâm,
Lái Thiêu một thời vang bóng cây ngọt
trái lành, vườn cây sai quả đã không
còn như xưa. Nhiều người nói rằng vườn cây
đã bị đốn bỏ vì chết dần mòn. Cây
không ra hoa và không đậu trái. Người ta
bán đất, bán vườn và những doanh nhân
đã lập thành xí nghiệp, kinh doanh, khách
sạn buôn bán nên vườn cây ngày
càng thu hẹp. Con rạch chạy dọc theo quốc lộ ngày xưa
nước lênh láng, xanh ngắt bây giờ lờ đờ, xanh sậm,
bốc mùi tanh ngay ngáy. Cỏ cây hai bên bờ
nhàu nát. Những mảnh vườn trái cây xanh
ngát, trùng điệp, cây trái trĩu cành
với những trái sầu riêng, măng cụt, dâu da,
bòn bon và những trái chôm chôm
tróc ngọt lịm còn đâu. Tôi tiếc ngẩn ngơ một
quá khứ đã quá vảng không ai còn
thèm nhớ đến. Người ta bây giờ muốn làm giàu
bằng kinh doanh buôn bán. Ai cần chi cái đất đai
vườn ruộng nhà quê, nghèo nàn, lạc hậu kia.
Nhà thơ họ Lê nói nhỏ vào tai tôi về
những xí nghiệp dọc theo hai bên đường, những Hotel
tráng lệ, những trung tâm thương mại, xí nghiệp,
lò gốm, Siêu Thị v.v… Bình Dương đổi thay nhiều
quá đến nổi tôi không dám đi đâu một
mình vì sợ lạc đường. Thời gian không chờ đợi ai.
Thời gian cứ im lặng, lửng thửng trôi đi đã mấy chục năm.
Ngay cả tôi bây giờ cũng đã già rồi
còn gì!
Biết bao giờ tôi trở lại Bình Dương để còn
nhìn lại mảnh trăng xưa, dòng sông cũ, còn
được nhìn lại từng khuôn mặt, nụ cười, tiếng nói
bạn bè. Trong trái tim tôi không có
khoảng cách của tình người.
Và bạn ơi! Tôi vẫn còn muốn tìm lại hương vị
quê hương qua món bánh bèo bì Mỹ
Liên chợ Búng. Xin chờ tôi nhé Bình
Dương yêu dấu!
Bánh
bèo bì Bình Dương
Trần tiến Dũng
(Báo Người Việt)
Cả miền Nam đâu cũng
có món bánh bèo bì, cần gì
phải đi đến Bình Dương để thưởng thức món ăn xưa nay vốn
là món bình dân. Ấy vậy mà Tường
Vân rất hào hứng nói: “Em có cô bạn,
sẵn sàng một chiếc Mazda bảy chỗ, bốn giờ chiều anh nhớ tới, anh
em mình đi Bình Dương ăn bánh bèo
bì”.
Trong ký ức của tôi, Bình Dương
chỉ là miệt cầu Ngang, nơi ngày còn đi học,
vào những ngày Chủ Nhật, tôi “cõng” cô
nàng cùng lớp hoặc cô tiểu thư hàng
xóm trên chiếc xe đạp, ì ạch dặm đường gió
bụi đến Lái Thiêu, “chun” vô vườn, kiếm gốc
cây rậm rạp để ngồi ăn măng cụt, chôm chôm,
bòn bon, đặc sản của Lái Thiêu, Bình Dương
thời ấy.
Ngày đó, trong túi tôi
lúc nào cũng đem theo chai dầu Nhị Thiên Ðường,
để khi các nàng bị kiến cắn, có cái
mà thoa lên da trắng xuân thì của quí
nương. Ngày đó, có lúc tôi đi qua chợ
Búng, nghe nói chợ này có món
bún bì ngon lắm, có lúc túi cũng
rủng rỉnh chút tiền, định bụng mời các em món
bì bún cho biết với người ta nhưng kỳ cục thay chưa lần
nào thực hiện được. Lý do đơn giản là chỉ sau khi
mặt trời lặn, chợ tan, tôi mới tìm thấy lối ra khỏi vườn
cây xanh trái ngọt. Ngu sao ngồi với con gái
mà về sớm.
Ngày nay, dân khấm khá ở
Sài Gòn ai cũng có đất vàng, đất bạc ở
Bình Dương, riêng một số “bạn nghèo cũ” của đất
Bình Dương, nếu nay vẫn còn nghèo mà
có dịp trở lại, đi lớ ngớ là lạc đường.
Trên chiếc xe do chính chủ nhân,
Yến, một thiếu phụ Hà Nội, người có gương mặt buồn rười
rượi cầm lái. Buổi chiều xuân muộn ở hướng Ðông
Bắc Sài Gòn, mây và gió cũng thấp
thoáng sắc u hoài không duyên cớ.
Ba người: Yến, Tường Vân và
Nguyên không có ký ức về món
bánh bèo bì và đất, gió Bình
Dương. Trong khi tôi, Nguyễn Viện, anh Trần Quang và Văn
Phương, mỗi người một mẩu chuyện hướng về những góc thơ mộng
ký ức Bình Dương xưa. Không cần phải gọi,
vùng ký ức này cũng tự nhiên thấp
thoáng món bánh bèo bì.
Ký ức không có tuổi, ký
ức về một món ăn lại hoàn toàn là một đứa
bé. Với đứa bé ấy, cảnh vật có thể khác
nhưng nước miếng thèm ăn, hương vị kích thích từ
một món ngon cũ không bao giờ khác.
Và từng ấy con người tuổi trung niên
ngồi trong chiếc xe, mỗi người đều có riêng một “khẩu
cảnh” với món bánh bèo bì. Nhưng với
riêng người “tình đầu” thì nỗi hào hứng dễ
bốc hơn. Không chộn rộn sao được khi “danh và vị” của
món ăn này, ngày nay đã là một thứ
“báu vật” của một địa phương nổi tiếng hào phóng
không kém gì Sài Gòn. Không
nôn nao sao được khi mà món bánh bèo,
món bún mỗi vùng mỗi khác, thế thì
“dung nhan“ của cô nàng bánh bột gạo ở đất người
đẹp Thẩm Thúy Hằng ra sao!
Quán bánh bèo bì Mỹ
Liên
Chúng tôi đến Bình Dương
lúc năm giờ. Dù là dân đô thị quen ăn
muộn, ngủ trễ nhưng không ai tránh được chuyện
chuông đồng hồ sinh học réo lên vào
lúc chim chuẩn bị về tổ, gà vô chuồng. Nguyễn Viện,
ngồi phía trước, nhà văn “dễ thương vô bờ” khi đưa
ra phác thảo kế hoạch ăn uống. Nguyễn Viện nói:
“Bình Dương có hai quán bánh bèo
bì nổi tiếng. Kế hoạch của mình là vào
quán mới, tên là Mỹ Liên, quán
này nghe nói trẻ tuổi hơn, mới xây lại nhưng ngon
hơn nên mình vào ăn bánh bèo trước.
Sau đó mình đến quán sáu mươi năm tuổi ăn
bì bún. Cả chuyến đi này chỉ ăn bánh
bèo với bì bún nên để dành bụng
mà ăn”.
Nằm ngay bên đường vào thị xã
Thủ Dầu Một, quán Mỹ Liên thoạt trông chỉ thấy giống
một tiệm chạp phô. Chiều Thứ Bảy khách ăn đông như
đi chùa ngày rằm. Ðời nay là vậy, nếu gặp cảnh
người xe nườm nượp thì y như rằng không là trung
tâm nhậu nhẹt cũng đích thị là quán ăn ngon.
Trong quán, tầng trệt, tầng lửng, lầu một
hết bàn, may mà chúng tôi còn
“giành” được cái bàn ở tầng trên
cùng. Lúc lên cầu thang nhìn xuống gian bếp,
thấy lủ khủ thau, thúng đựng rau tươi, bún, bì,
bánh tráng, người nhà bếp có hơn cả chục,
ai cũng hối hả, lăng xăng. Rồi đi qua từng tầng, nhìn cảnh
khách ngồi ăn, ngồi chờ. Toàn cảnh quán Mỹ
Liên này, khiến chúng tôi hình dung
đến đám giỗ của một gia đình nhà giàu tỉnh
lẻ.
Lúc người đàn ông phục vụ đến
kêu chúng tôi gọi món. Tất nhiên
là chúng tôi gọi “cho bảy dĩa bánh
bèo”. Chính người đàn ông này cho
chúng tôi biết quán có trên một trăm
năm tuổi. Khởi nghiệp bán bánh bèo bún
bì là một người đàn bà, với cái
gánh hàng rong bên đường. Bà bán cho
khách ăn ngồi chồm hổm không kịp, nên từ từ kê
bàn lúp xúp lấn vô sân, rồi sau
đó vô nhà trên, nhà dưới, đến đời nay
mới lên lầu.
Người đàn ông phục vụ có miệng
cười thấy hai hàm răng này nói: “Bà chủ
quán hiện nay đã sáu mươi ba tuổi, bà
là cháu ngoại của bà gánh bánh
bèo hồi xưa. Mấy anh cứ tính ra thì biết cố cựu cỡ
nào”.
Theo lời anh bán hàng kể, quán
Mỹ Liên mới thật là quán bánh bèo
bì xưa nhất ở đất Thủ Dầu Một. Chúng tôi thấy kiến
thức “lịch sử bánh bèo bì” ở đất Bình Dương
của mình là sai. Thiệt tình mà nói,
xứ mình đâu có nhà sử học ẩm thực hay bộ từ
điển món ăn nào để tra cứu. Về văn minh ăn uống, ai đồn
sao nghe vậy, dẫu có trật lất, trật lơ cũng đâu có
gì mắc cỡ!
Nhưng khi nghe tin bánh bèo
bún bì của quán này, năm 1999 được tỉnh
Bình Dương cử đi thi món ngon cả nước và
trúng giải nhất, được cấp bằng lộng kính, treo lên
tường hẳn hoi thì đương nhiên thực khách tứ phương
ưng chuyện ăn ngon mà thiếu kiến thức ắt cũng phải trầm trồ. Ra
vậy! Dân Nam Kỳ bán đồ ăn vốn coi trọng tiếng khen của
thực khách hơn là chuyện lòe cái bằng chứng
nhận hạng “dzách lầu”. Nhưng một khi chủ quán chịu trưng
lên cho bá tánh xa gần biết cái “miếng giấy”
đó, ắt phát xuất từ lòng tự hào hơn
là nhu cầu bon chen cạnh tranh thời buổi kinh tế thị trường
bát nháo.
Làm bánh bèo
Bánh bèo làm bằng bột gạo.
Vì là món bình dân để ăn chơi
nên không nhất thiết phải làm bằng một thứ gạo thơm
ngon đắt tiền. Nhưng hầu như cái bánh bèo
nào cũng ngon lành.
Nếu hiểu ‘tiến trình” từ một loại gạo
bình thường, làm thành bột, thành
bánh thì sẽ vỡ lẽ. Mỗi cái bánh bèo
là một cuộc đời của những hạt gạo tắm gội trong nước, hay văn vẻ
hơn là thanh lọc trong nguồn cội của nước. Tôi nhớ
ngày xưa, má tôi làm bánh bèo
như vầy.
Khởi đầu, bà sai mấy chị tôi đổ nước
uống, thường là nước mưa vào gạo để ngâm qua
đêm. Hôm sau mấy chị tôi lại đổ nước, gút cho
tới khi nào bốc gạo lên ngửi không còn
mùi chua, do lên men của cám gạo gặp nước. Sau
đó má tôi biểu ra nhà sau rửa sạch cối
đá mà xay. Tôi ham ăn bánh bèo nhưng
ghét chuyện má tôi làm bánh
bèo đãi khách, vì xay bột mỏi tay lắm. Hạt
gạo đã xay thành bột, bột hòa trong nước, gọi
là bột nước. Lúc này má tôi mới ra
tay, bà đổ bột nước vô một cái bao vải, cột miệng
thật chặt, sau đó bắt tôi bưng cái cối đá
đè lên, để qua đêm. Lúc đó tôi
suy diễn chuyện má tôi tự tay cột chặt miệng bao, bao bột
nước là cô gái được má tôi xe
duyên cùng anh chàng cối đá. Giống như
chuyện đàn ông đàn bà ngủ với nhau qua
đêm. Sáng hôm sau nước đục trong bao bột chảy hết,
phần gạo còn lại kết tinh trắng ngần. Chưa hết, má
tôi lại gọi mấy chị em tôi đem mấy cái nia tre ra,
rồi thay nhau ngắt từng cục bột trải lên nia, đem phơi nắng. Bột
làm bánh bèo sau khi tắm gội trong nắng sẽ
khô đi và chờ má tôi đổ bánh,
bà sẽ canh liều lượng khách ăn mà sử dụng, phần
bột khô còn lại để dành cho lần đổ bánh
khác. Ðể có được thứ bột đúng tiêu chuẩn
đổ bánh, một lần nữa, bà lại quậy bột với nước, chất tinh
anh trong trắng của gạo lại được hòa vào nguồn nước.
Quê tôi dùng từ đổ bánh
bèo chớ không nói làm bánh
bèo. Ngày đó, đất gốm xứ Bình Dương
này có sản xuất một loại chén nhỏ chuyên
dùng cho việc đổ bánh bèo. Ðổ bánh
là một nghệ thuật, khi đổ (rót) bột, tay đổ dứt hột (giọt
bột) thì bột bánh phải vừa ngám, tròn đầy
cái chén, không hao bột, không thiếu bột,
có vậy, sau khi hấp chín mỗi cái bánh
bèo mới bung nở như một nụ xuân thì, trông
xinh đẹp biết bao !
Bì
Bánh bèo Bình Dương nhân
đậu xanh. Cũng có thể hình dung màu xanh của đậu
như nhụy hoa tô điểm cho cánh hoa bánh bèo
trắng ngần, gọi mời những cái miệng bướm, miệng ong thèm
ăn. Kèm thính gạo trộn với bì (da và thịt
heo nạc) rắc phủ trên bánh bèo. Thính như
là thứ phấn hoa đậm hương, khiến cho hương vị của bánh
bèo quyến rũ vô cùng.
Người miền Nam ưa ăn thính. Món
bì ăn cơm tấm cũng được trộn thính và gần như
thính là một món đặc biệt được dùng cho
các món bì. Thính làm từ gạo, hạt
gạo sau khi nhảy múa (rang) trong chảo, trong nồi với lửa tới
khi cháy bén, tỏa mùi thơm khen khét. Rang
bén mùi khét thôi chớ không được
phép khét. Ðể đạt được chuẩn mực này người
rang phải có kinh nghiệm và chính kinh nghiệm
lâu năm mà một số bà buôn gánh,
bán bưng đạt được tới nghệ thuật rang thính. Bà
nội trợ nào cũng rang được thính, nhưng làm
món bì mà rang thính không có
bí quyết riêng thì không mong gì tiệm
ăn của mình trở thành trứ danh.
Món bánh bèo bì,
bún bì, bì cuốn Mỹ Liên quả là
có thứ thính đặc biệt không thể nhầm lẫn hay bắt
chước. Ở các quán bán món bì nổi
tiếng khác cũng vậy. Còn hỏi đặc biệt cỡ nào
thì phải tự mình ăn, tự mình so sánh mới
biết.
Khẩu vị bánh bèo bì
Khi bảy dĩa bánh bèo được bưng ra
thì trời cũng vừa sập tối. Diễn viên gạo cội của điện ảnh
Sài Gòn, anh Trần Quang dùng khăn giấy lau đũa
muỗng những cử chỉ chầm chậm của anh phần nào cho thấy vẻ
trân trọng món bánh bèo bì. Có
lẽ không ít hơn ba mươi năm anh mới “gặp lại” món
bánh bèo Bình Dương. Lúc từ Mỹ về Việt Nam,
anh không nghĩ rằng lại có “duyên” ăn món
này. Bởi vậy, không phải người sang hay có tiền
là đương nhiên được gặp lại món ngon ngày
cũ. Cái thú ăn uống trên đời có khi phải
có duyên mới được toại ý.
Anh Trần Quang dùng đũa chạm vào từng
cái “hoa” bánh bèo thật nhẹ nhàng, anh từ
từ ăn, chắc là muốn cho hương vị bánh bèo từ từ
thấm vào khẩu vị. Có thể đó là phong
cách ăn quí phái của những người Bắc xưa. Cũng
có thế là anh đang cảm nhận cho hết vị ngon của mỗi
cái bánh bèo bì, rau thơm, nước mắm, những
vị ngon thiệt tình của món ăn miền Nam, vị ngon chừng như
biết chia sẻ nỗi ẩn ức sâu kín của thân phận người
lưu vong.
Lúc ăn gần hết dĩa bánh bèo,
tôi mới để ý chỉ có tôi và anh
chàng nông dân ngồi bàn bên cạnh
là lấy muỗng múc nguyên cái bánh
bèo, nước mắm chanh đường, rau thơm cho một lúc trọn vẹn
vô miệng. Phải ăn uống đúng phong cách vùng
miền mới thấy ngon thấy đã là vậy!
Tôi hỏi Yến: “Sao thấy cô ăn
không mạnh miệng?”. Cô nói: “Mới lần đầu ăn
nên lạ”. Tôi lại hỏi: “Thấy bánh bèo sao?”.
Nghĩ một lúc, Yến nói: “Nước mắm ngọt quá,
không quen!”.
Tường Vân giải thích: “Miền Bắc
thích nước chấm có vị chua hơn. Trong này ăn ngọt
quá!”.
Mỗi món ngon của từng miền đất vốn tự
nhiên đã tồn tại trong chiều dài thời gian
và không gian văn hóa đặc thù. Tự món
ngon đó đã dung chứa mọi khác biệt của khẩu vị.
Và có lẽ những ai có cuộc sống từng trải đều
có thể chiêm nghiệm rằng: khi nói con người
có quyền thay đổi món ăn theo khẩu vị thì ngược
lại món ăn cũng có đủ năng lực làm thay đổi con
người.
Tôi
khoái ăn bánh bèo bì Bình Dương,
trước tiên là vì nó ngon đến mức tự tại.